Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Kích thích kinh tế và lạm phát – nhìn từ Nhật

Kích thích kinh tế và lạm phát – nhìn từ Nhật 

           
            Nước Nhật gần đây đã tiến hành một loạt các biện pháp tiền tệ và tài chính mạnh tay để đưa nước này thoát ra khỏi vũng lầy thiểu phát. Các biện pháp này đã làm đồng yen mất giá đáng kể so với trước đây nhưng lạm phát tại Nhật vẫn đang ở mức âm. Đối với một nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu nhiều mặt hàng chiến lược, trong đó có dầu mỏ, như Nhật, điều này tỏ ra là một nghịch lý, và càng là nghịch lý hơn nếu khi so với Việt Nam, nơi mà mỗi khi phá giá tiền đồng, mối lo lớn nhất luôn là lạm phát gia tăng mạnh. Trong bài này, chúng ta sẽ thử đưa ra một vài giải thích cho nghịch lý này.

Các biện pháp kích thích của Nhật

Sau nhiều năm vật lộn với thiểu phát không thấy tương lai, đột nhiên Nhật đang chứng kiến những dấu hiệu khởi sắc không ngờ. Những doanh nghiệp như Sony nay đã báo lãi lần đầu tiên sau 5 năm thua lỗ, một phần lớn nhờ đồng yen đã mất hơn ¼ giá trị, cải thiện mạnh thu nhập và lãi ròng của Sony nói riêng và các doanh nghiệp xuất khẩu của Nhật nói chung. Trong khi đó,  giá cổ phiếu đã tăng hơn 60% so với 1 năm trước . Còn về phía người tiêu dùng Nhật vốn thích giữ tiền hơn là chi tiêu trong thời kỳ thiểu phát, nhiều người nay cũng đã sẵn lòng mở hầu bao mua những món hàng xa xỉ tại các trung tâm thương mại.

Lý do đằng sau sự khởi sắc này có thể quy cho liệu pháp sốc kinh tế của Thủ tướng Shinzo Abe, còn được gọi bằng cái tên lóng “Abenomics”. Kế hoạch của ông, một thử nghiệm kinh tế táo bạo nhất trong thế giới đương đại, bao gồm biện pháp bơm vào nền kinh tế một lượng lớn tiền mặt cực lớn với lãi suất thấp (tăng gấp đôi cung tiền sau mỗi 2 năm để hướng đến mục tiêu lạm phát tăng lên 2%), biện pháp kích thích tài khóa truyền thống nhằm mục đích đưa thâm hụt ngân sách lên khoảng 11%-12% GDP, và biện pháp tự do hóa văn hóa doanh nghiệp khép kín, hướng nội nổi tiếng của Nhật. Mục đích nhằm tới của kế hoạch này là tăng thu nhập cho doanh nghiệp, nhờ đó tăng thu nhập cho người lao động, đồng thời tăng kỳ vọng lạm phát nhằm kích thích chi tiêu, đầu tư, và phá vỡ vòng xoáy thiểu phát gây ra bởi sự tụt giảm giá cả và theo đó là tụt giảm kỳ vọng, niềm tin của người tiêu dùng và nhà đầu tư vào tương lai kinh tế. Lạm phát tăng sẽ là một cú hích buộc người ta phải mở hầu bao ra chi tiêu trước khi tiền của họ mất giá vì lạm phát, nhờ đó dập tắt tâm lý dẫn đến thiểu phát rằng càng trì hoãn chi tiêu hôm nay thì càng có cơ hội mua được hàng hóa với giá rẻ hơn vào ngày sau.

Kết quả bước đầu

Xem ra kế hoạch này đã bước đầu thành công. Tăng trưởng kinh tế trong quý I đã đạt 3.5% tính theo năm, và, quan trọng hơn, trọng tâm trong kế hoạch của Abe là phục hồi lòng tin của người tiêu dùng đã được hiện thực hóa khi chi tiêu hộ gia đình đã chiếm tỷ trọng chính trong mức tăng trưởng này.
 
             Tuy vậy, mục tiêu đưa lạm phát lên 2%/năm xem ra chưa có mấy khả năng thành hiện thực. Chỉ số CPI lõi vẫn tiếp tục giảm 0.9% hồi tháng 3 sau khi đã giảm 1% trong tháng 2 năm nay so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tháng 3 là tháng giảm thứ 5 liên tiếp của giá cả ở Nhật, cho thấy Nhật vẫn chưa thoát khỏi vũng lầy thiểu phát đã kéo dài 15 năm nay.

Một trong những giải thích hợp lý cho sự “cứng đầu” của thiểu phát ở Nhật nằm ở yếu tố địa chính trị. Tuy động cơ của liệu pháp Abenomics là tạo ra lạm phát nhưng một “tác dụng phụ” của nó là làm đồng yen suy yếu so với đồng won Hàn Quốc, và đặc biệt là đồng yuan của Trung Quốc, ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của 2 nước này, vốn là những nước đối tác thương mại lớn nhất của Nhật. Việc “làm nghèo hàng xóm” này của Nhật, dù có vẻ là không cố ý, có khả năng sẽ dẫn đến xung đột thương mại với 2 nước này, đặc biệt là Trung Quốc vốn đang rất nhạy cảm với Nhật kể từ sau vụ Nhật quốc hữu hóa mấy hòn đảo có tranh chấp với Trung Quốc. Sự trả đũa từ 2 nền kinh tế này (dưới dạng chiến tranh tiền tệ, hàng rào thương mại cho nhập khẩu từ Nhật, và sự kiểm soát chặt với đầu tư từ Nhật v.v...) tại một thời điểm nào đó là điều khó tránh khỏi.

Bởi thế, sự phục hồi kinh tế dựa vào một đồng yen yếu của Nhật xem ra khó có thể kéo dài. Và một thực tế là vốn đầu tư cố định của các công ty Nhật đã không tăng đáng kể dù xuất khẩu của họ tăng mạnh cho thấy ngay bản thân giới quản lý các công ty Nhật cũng không tin tưởng vào khả năng kéo dài của một đồng yen yếu làm điểm tựa lâu dài cho tăng trưởng xuất khẩu và lợi nhuận của họ.

Nói cách khác, liệu pháp Abenomics vẫn chưa chế ngự được sự hoài nghi vào tương lai đã ăn sâu ở một bộ phận lớn trong xã hội Nhật sau cả gần 2 thập kỷ mất mát, hoặc vẫn còn sớm để chứng kiến tác dụng của nó trên lĩnh vực này, và vì thế giá cả tại Nhật vẫn tiếp tục sụt giảm bất chấp đồng yen đã mất giá mạnh cho đến nay.

 Khác biệt ở Việt Nam

            Ở Việt Nam, với cơ chế neo tỷ giá, việc chủ động phá giá tiền đồng thường khá hãn hữu trong những năm qua. Nếu có, việc phá giá thường chỉ là một hành động bắt buộc, miễn cưỡng phải làm dưới áp lực của thị trường sau mỗi thời kỳ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nới lỏng chính sách tiền tệ quá mức gây áp lực lên lạm phát và sự lên giá thực của tiền đồng so với ngoại tệ. Bởi thế, không phải ngẫu nhiên, những thời điểm phá giá tiền đồng lại trùng hợp với những thời điểm lạm phát đang có xu hướng đi lên. Điều này vừa gây ra ngộ nhận rằng phá giá là nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở Việt Nam, vừa phóng đại tác động của phá giá lên lạm phát thông qua kênh nhập khẩu lên quá mức thực tế.

            Mặt khác, lòng tin tiêu dùng, đầu tư ở Việt Nam hầu như chưa bao giờ bị làm thui chột hoàn toàn như ở Nhật, vì Việt Nam kể từ sau Đổi mới đến nay đều liên tục tăng trưởng với tốc độ khá, chưa phải trải qua một năm thiểu phát nào theo đúng nghĩa của nó. Vì vậy, không như ở Nhật, ở Việt Nam khi chính sách tiền tệ được nới lỏng, kết hợp với tăng thu nhập từ tăng xuất khẩu nhờ phá giá tiền đồng, thông thường chi tiêu, tổng cầu và nhập khẩu sẽ tăng theo, từ đó làm tăng áp lực lạm phát. Ngược lại, dấu hiệu suy giảm tăng trưởng tổng cầu và lòng tin 2 năm gần đây ở Việt Nam cho thấy áp lực từ phá giá hay tăng giá xăng dầu, điện nước v.v... lên lạm phát xem ra không còn lớn như trước nữa, trong khi cung tiền vẫn tăng mạnh.

            Tóm lại, có thể không nói quá rằng điều nghịch lý ở Nhật so với Việt Nam phần lớn là do sự thiếu vắng lòng tin vào tương lai làm người dân và doanh nghiệp tiếp tục thận trọng với việc mở hầu bao chi tiêu.

 
Phụ lục

 Có nhiều người thắc mắc rằng, vể mặt kỹ thuật, khi đồng yen mất giá làm giá hàng nhập khẩu tăng lên, tại sao CPI của Nhật vẫn không tăng?
Trả lời: Thực tế này diễn ra không chỉ ở Nhật mà còn có thể xảy ra ở nhiều nước khác, kể cả Việt Nam trong một số hoàn cảnh (đặc biệt khi tăng trưởng tổng cầu suy yếu). Trong bảng số liệu về  giá trị và chỉ số giá nhập khẩu dưới đây, giá trị nhập khẩu được nêu ở cột A và B của bảng (đơn vị là tỷ yen). Cột C và D cho biết chỉ số giá nhập khẩu. Nhìn vào các cột này ta thấy, quả thật, đi kèm với sự mất giá của đồng yen là sự tăng lên về giá trị nhập khẩu và giá hàng hóa nhập khẩu nói chung đắt lên. 

Giá trị và lượng nhập khẩu của Nhật
 Giá trị nhập khẩuChỉ số giá nh.khẩuLượng nhập khẩu 
 201220132012201320122013
 ABCDE=A/CF=B/D
Tháng 1599264291041165756
Tháng 2541360621061205150
Tháng 3628566341131225654
Tháng 4609066571131245454
Nguồn:  tradingeconomics.com
 
Đem chia cột A cho C và B cho E ta có được những con số có thể coi là tổng lượng nhập khẩu. So sánh năm 2013 với năm 2012 (cột E và F), ta thấy lượng nhập khẩu thực tế giảm đi trong năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012. Điều này có nghĩa là rất có thể vì giá hàng nhập khẩu tính bằng yen đã tăng nên rốt cuộc, vì gánh nặng chi tiêu tăng lên, người Nhật phải cắt giảm lượng nhập khẩu (chẳng hạn họ phải tìm cách tiêu dùng ít đi, ví dụ như tắt điều hòa hoặc để điều hòa ở nhiệt độ cao hơn để giảm lượng điện tiêu thụ từ đó giảm lượng than hay dầu chạy máy phát điện; dùng hàng trong nước sản xuất thay thế hàng nhập khẩu – là điều mà tác giả đã giải thích rõ trong bài trên TBKTSG đầu tháng 4).

Với lượng hàng nhập khẩu ít đi để bù trừ cho giá hàng nhập khẩu tính bằng yen đã tăng lên, rốt cuộc tác động lên lạm phát từ kênh nhập khẩu sẽ không lớn như người ta vẫn tưởng. Quan trọng hơn, một phần của hàng nhập khẩu nay đã được thay thế bởi hàng sản xuất trong nước đã trở nên rẻ hơn sau khi yen mất giá, làm cho mặt bằng giá cả trong nước không tăng nhiều, và thậm chí còn giảm nếu mức độ thay thế đủ lớn. Nhu cầu hàng nhập khẩu yếu đi cũng làm cho nhà nhập khẩu không dám điều chỉnh tăng giá bán tại Nhật theo sự mất giá của yen (cũng tương tự tình trạng xảy ra với mặt hàng ô tô nhập khẩu ở Việt Nam). Họ sẽ có thể phải cắt giảm bớt lợi nhuận, chịu phần thiệt về phía mình để giữ khách. Tất cả các yếu tố này kết hợp với lòng tin tiêu dùng nói chung vẫn còn yếu ở một bộ phận lớn trong xã hội Nhật đã kìm giữ lạm phát của Nhật ở mức thấp, thậm chí là thiểu phát mặc dù yen đã mất giá mạnh.

Lạm phát, mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế

Lạm phát, mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế

Thực chất của quan hệ giữa lạm phát với năng suất và tăng trưởng là thế nào? Mục tiêu lạm phát (MTLP) có phải là điều kiện cần trong chính sách tiền tệ không? Bài viết này sẽ cung cấp những cơ sở lý luận và kết quả thực chứng cho những vấn đề này và liên hệ với Việt Nam.
 
Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như vậy, các nhà đầu tư thường có xu hướng mắc lỗi trong quyết định của mình và chọn những “gói” yếu tố sản xuất không phải là tối ưu, làm giảm hiệu quả kinh tế và, do đó, giảm năng suất.
Tuy nhiên, không ít người lại lập luận rằng lạm phát ở một mức nhẹ lại có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi tiếng Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận thêm rằng “một chút lạm phát giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho phù hợp. Một số khác cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải giảm, năng suất lao động và, do đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm phát bằng 0 chẳng qua là chính sách trả trước ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này. 
Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thật sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia.
Như vậy có thể nói rằng về lý luận, quan hệ nhân quả giữa lạm phát với năng suất lao động và/hoặc tăng trưởng chưa hoàn toàn sáng tỏ. Thực tế, kết quả nghiên cứu thực chứng trong nhiều nghiên cứu cấp quốc gia và nhóm quốc gia cũng chỉ ra một quan hệ phức tạp giữa 2 nhóm biến số này. Các nghiên cứu thực chứng ban đầu chỉ tập trung vào nhóm G7, hoặc các nước trong tổ chức OECD, và kết quả nghiên cứu không chỉ ra được một kết luận rõ ràng về quan hệ này. Tùy theo dữ liệu sử dụng là chuỗi thời gian (cho trường hợp nghiên cứu từng quốc gia cụ thể), hay dữ liệu cho nhóm quốc gia sẽ có các kết quả đối ngược nhau. Về sau này, một số tác giả bắt đầu nghiên cứu thêm nhóm các nước ở châu Á. Kết quả nghiên cứu cũng không khác mấy so với kết quả từ các nghiên cứu trước đó đối với nhóm OECD hay G7. Cụ thể, ở một số nước như Nhật, Thái Lan, Sri Lanca, Philippines, và Indonesia, lạm phát và năng suất không hề có quan hệ gì với nhau. Ở một số nước khác như Malaysia, lạm phát có tác động tiêu cực đến năng suất. Ở những nước như Hàn Quốc, Ấn Độ, và Singapore, 2 biến số này tác động lẫn nhau.
Căn cứ vào kinh nghiệm của những quốc gia như nêu trên, có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam liên quan đến MTLP ở ta như hiện nay: 
Ảnh hưởng của lạm phát là không rõ ràng lên tăng trưởng kinh tế. Ở một nước/nhóm nước nào đó lạm phát (và tính bất trắc lạm phát) có thể làm giảm năng suất (và giảm tăng trưởng), nhưng ở một nước/nhóm nước khác điều này là không đúng. Vì vậy, trước khi đưa ra một MTLP để kiềm chế lạm phát ở nước ta (mà chủ yếu dựa vào chính sách tiền tệ), cần phải có những nghiên cứu thực chứng công phu để có một đánh giá đúng về quan hệ giữa lạm phát và năng suất (và tăng trưởng) ở nước ta. Khi chưa có những nghiên cứu này thì không thể loại trừ khả năng lạm phát ở ta tuy cao nhưng tác động của nó lên tăng trưởng là không đáng kể, và do đó chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát là không cần thiết và chỉ dẫn đến suy giảm tăng trưởng.
Cũng giống như nhiều quốc gia, lạm phát ở ta cũng do một nguyên nhân quan trọng là ngân sách nhà nước liên tục ở mức thâm hụt. Hầu như từ khi thống nhất đất nước đến nay chưa bao giờ ngân sách đạt được cân bằng thu chi, đặc biệt trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế vĩ mô trước thập kỷ 90. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, thâm hụt ngân sách tăng dần, từ mức 0.13% GDP năm 1998 lên đến 3.23% năm 2001, sau đó giảm xuống, nhưng vẫn còn đứng ở mức khá cao, trên 2% trong vòng 2, 3 năm gần đây. Như vậy, kiềm chế thâm hụt tài khóa sẽ góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát và do đó làm giảm bớt tầm quan trọng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Dường như lâu nay ở ta có một quan niệm sai lầm và nguy hại rằng lạm phát chủ yếu bắt nguồn từ các cơn sốt giá nguyên nhiên liệu chiến lược đầu vào. Một số ít người thì tỉnh táo hơn đã nhắc đến sự tăng trưởng tín dụng mạnh để kích cầu trong những năm trước là một nguyên nhân khác của xu hướng lạm phát tăng cao trong những năm gần đây. Thế nhưng hầu như không ai đả động đến một nguyên nhân cũng rất quan trọng là thâm hụt tài khóa đã và đang ở mức khá cao như hiện nay. Từ nhận thức đầy đủ về nguồn gốc lạm phát này, có thể thấy chính sách kiềm chế lạm phát nhờ thắt chặt tín dụng và kiềm chế giá của các nguyên nhiên liệu đầu vào không cho tăng lên là chưa đủ, chưa thật thích hợp, thậm chí là có hại (vì, ví dụ, giá các loại yếu tố đầu vào này sớm hay muộn cũng phải tăng lên cho phù hợp với giá cả thực tế của chúng).

Để có cơ sở áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát như hiện nay, cần phải có thêm một nghiên cứu thực chứng đầy đủ về quan hệ giữa cung tiền và lạm phát trong bối cảnh cụ thể Việt Nam. Điều này là cần thiết vì tăng cung tiền không nhất thiết sẽ gây ra lạm phát. Và nghiên cứu thực chứng ở một số nước (chẳng hạn Ấn Độ và Hàn Quốc) cũng khẳng định rằng tăng cung tiền không phải là nguyên nhân của lạm phát ở những nước này.

Để cho chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc kiềm chế lạm phát, có một số điều kiện tiên quyết. Đó là một thị trường tài chính được tự do hóa, một ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ, và một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tiến gần đến cơ chế thả nổi hoàn toàn. Ở Việt Nam, 3 điều kiện này chưa (hoàn toàn) được xác lập. Chúng ta mới bắt đầu tự do hóa thị trường tài chính qua một số động thái, trong đó có việc xóa bỏ trần lãi suất, nhưng hoạt động trong các ngành tài chính và ngân hàng chưa hoàn toàn dựa trên các nguyên tắc thị trường. Ngân hàng Nhà nước, với tư cách là một ngân hàng trung ương, vẫn là một thành viên của chính phủ và chịu nhiều chi phối từ đây. Cơ chế tỷ giá vẫn rất cứng nhắc, hầu như là gắn chặt giá đồng nội tệ với đôla Mỹ.

http://phan-minh-ngoc.blogspot.com/2013/05/lam-phat-muc-tieu-co-ap-dung-uoc-o-viet.html?utm_source=feedburner&utm_medium=feed&utm_campaign=Feed%3A+blogspot%2FpMpUg+%28Phan+Minh+Ngoc%29

Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

KHI ĐAM MÊ TRỞ THÀNH ĐỘNG LỰC SỐNG

Động lực qua góc nhìn của chuyên gia kinh tế – TS. Alan Phan chia sẻ câu chuyện từ chính cuộc đời mình…
Thay đổi tư duy, thay đổi cuộc đời
hưa ông, trong cuộc đời của mình có những bước ngoặt nào khiến ông nhớ mãi?
TS. Alan Phan: Trước 30/4/1975, tôi là một doanh nhân khá có tiếng ở đất Sài Gòn. Lúc đó là chủ một vài công ty, dưới có khoảng 20 ngàn nhân viên. Có thể nói như vậy là thành công. Nhưng rồi sự kiện 30/4/1975 xảy ra, đó cũng là một biến cố xảy đến với gia đình tôi: Một ngày đẹp trời mọi thứ biến mất. Gia đình tôi ra Hạm đội 7 và lên tàu qua đảo Guam.
Tôi nhớ cái cảm giác của tôi lúc đó. Lúc đó tôi mất hết, vài triệu đô la là số tiền lớn vào thời đó. Với không ít người, đó là là cứ shock khá đáng kể. Nhưng với tôi, trong buổi sáng, một mình bên bãi biển, tôi thấy lòng mình nhẹ nhõm. Tôi mất hết nhưng điều lạ là thấy sự thanh bình tuyệt diệu.
Lúc trước ở Sài Gòn, sáng sớm 6h hai cô thư ký đã đến bàn đủ thứ công việc. Nhưng hôm đó 4h sáng ngồi ở bãi biển Guam. Không ai quấy rầy, không có chương trình, không có gì để làm cả ngày,  thấy sao lòng nhẹ nhõm, sao đời hạnh phúc như thế này. Trong khi đó bà vợ cũ của tôi thì nằm khóc thút thít vì mất hết tiền bạc, sản nghiệp. Khi qua Mỹ, tôi rời trại tị nạn sớm nhất. Và lúc ấy trong túi chỉ có vài trăm đô la. Chính xác là 4 trăm đô la, một bà vợ, một đứa con và ở tạm căn hộ đằng sau của một nhà thờ.
Lúc đó tôi không buồn bã chuyện mất mát, mà lấy một tập giấy hí hoáy kế hoạch xem bây giờ phải làm gì để kiếm tiền, làm thế nào để có một sự nghiệp khác. Bắt đầu lại – đó là thái độ của tôi với biến cố đó của đời mình.
Ông đã chứng kiến những ai thiếu động lực và bỏ mặc cuộc đời mình cho bão táp số phận cuốn đi chưa?
Kể đâu xa, trong gia đình tôi, tôi có người em trai và người em gái. Có thể nói, sinh ra trong một môi trường gần như giống nhau, cũng bố mẹ đó, cách nhau khoảng 3-4 tuổi. Có thể nói là không khác nhiều lắm. Tuy nhiên mỗi người một số phận khác nhau.
Em trai tôi thua tôi 5 tuổi, lúc đó cậu ấy vừa mới tốt nghiệp ngành luật sư. Nó thấy đời tự nhiên hụt hẫng, mất mát tất cả mọi thứ khi qua Mỹ chỉ vì không còn được hành nghề luật sư nữa. Cái bằng đó vô dụng, bao nhiêu năm học tập mất hết. Có thể bắt đầu lại dù rất khó khăn. Trong phản ứng, thái độ của cậu ấy rất yếu thế, tiêu cực. Lúc đó cậu bắt đầu bỏ bê, hút sách, nhậu nhẹt… Vì cậu nghĩ đời cậu bỏ đi. Và thực sự khi đã nghĩ mình là bỏ đi, thì cuộc đời bỏ đi thật. Với lối tư duy như vậy, con người ta có thể đoán được cái kết cục của cuộc đời. Đó là một thái độ khác dù chúng tôi cùng trong một gia đình, cùng đối diện với một biến cố.
Trong khi đó cô em gái tôi ngược lại. Cô cũng không có gì tích cực lắm. Trước đó cô hành nghề luật sư tương đối tốt, nhà cửa cũng rộng rãi ở Sài Gòn. Khi mất hết, cô qua Mỹ và đi học lại. Lúc đó Chính phủ Mỹ cho vay đi học. Cô nhận thấy mình nói tiếng Anh không giỏi lắm thì không học luật sư nữa, mà học kế toán. Mấy chục năm sau, cô là nhân viên cao cấp của hãng đa quốc St.Gobain, đời sống thoải mái, có thể nói khá giả hơn người bình thường.
Còn tôi, sau biến cố, tôi bận rộn với chương trình mới của mình. Mình nghĩ đến việc trước mặt, nghĩ cách làm thế nào để đời sống phong phú, hào hứng. Lúc đó, tôi có dịp để chứng tỏ lại mình. Bây giờ bắt đầu như một trang giấy mới, rất thoải mái. Thái độ của mình quyết định định mệnh của mình.
Như vậy, để nói rằng, ba anh em nhưng ba số phận khác nhau, tất cả đều thay đổi nhờ thái độ sống lạc quan hay bi quan…
Theo ông, đâu là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của những người trẻ mới lập nghiệp?
Theo tôi, có rất nhiều xúc tác ảnh hưởng, nhưng có hai yếu tố chính để quyết định sự thành công hay thất bại của các bạn trẻ khi lập nghiệp.
Thứ nhất là phải có đam mê: Một thực tế là không có gì dễ dàng trong hành trình cuộc đời của mỗi chúng ta, trừ những người có số may mắn, còn lại đều phải làm việc cật lực. Cuộc sống sẽ luôn có những khó khăn này đến khó khăn khác, nếu mình không đam mê sẽ dễ bỏ cuộc. Cho nên cần đam mê công việc như một cái sở thích. Ví dụ, với tôi, việc kinh doanh giống như sáng sớm tôi đánh tennis: lúc thì đánh thắng, lúc thì thua, không quan trọng, quan trọng là mình được chơi một trò chơi. Đó là cái đam mê.
Ông Edison ông làm ra bóng điện, ông làm cả ngàn lần thất bại, nhưng ông làm hoài rồi cũng có được một phát minh lịch sử – đó là tạo ra được bóng điện, và chúng ta giờ đây không thắp nến mỗi đêm là nhờ một anh chàng đam mê như thế. Có đam mê thì mới theo đuổi công việc đến cùng. Không có đam mê thì không có thành công bền vững và lâu dài.
Thứ hai là kiên nhẫn: Không kiên nhẫn thì thế nào, tới một lúc nào đó mình xoa tay thôi quên nó đi. Phải biết chờ thời. Cũng như mình đi trên đường đời mình không biết khúc ngoặt ở đằng trước là gì, nhưng đôi khi khúc khoặt có thể đem đến cả một tương lai tươi sáng mà mình không thể tưởng tượng được.
Ví dụ, năm 1968, sau 5 năm lấy bằng Master ở nước ngoài thì tôi về Việt Nam, lúc đó tôi nghĩ mình chỉ thích làm nghề dạy học, không biết mình thích kinh doanh. Một đêm tôi hẹn hò với một cô đào, nhưng đến giờ hẹn chờ mãi không thấy cô ấy đến. Tôi nhìn qua bên cạnh thấy một người Mỹ lật bản đồ Sài Gòn, tôi hỏi có cần giúp không? Từ mối quen biết  này, đã tạo dựng cho tôi một sự nghiệp sau đó.
Thế nên, mình không thể ngờ được bước ngoặt ở tương lai của mình, nó sẽ đưa mình đi tới đâu. Có thể tươi sáng, nhưng cũng có thể đi xuống hố. Nhưng mà cứ phải tiếp tục đi, xuống hố thì lại leo lên, đi tiếp. Tới một lúc nào đó, trong cái phút bất ngờ nhất, mình tự nhiên trở thành “người hùng của thời thế” cũng không biết chừng. Cho nên đam mê và kiên nhẫn tiếp tục đi, tiếp tục cuộc chơi.
Hãy xem thất bại là bạn…
Nhưng có một thực tế là không phải người trẻ nào cũng biết được mình đam mê cái gì, và kiên nhẫn cho điều gì, nhiều người muốn khởi nghiệp và khởi sự nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu…
Tất nhiên mình cần phải biết mình đam mê điều gì chứ: Mình có thể trở thành một anh nông dân làm vườn, một kỹ sư, chứ không phải lúc nào cũng cần là đại gia, có nhiều tiền… có những điều hạnh phúc rất là giản đơn. Nhưng mình phải biết cái mình muốn là gì, chứ không phải mình chạy theo cái trào lưu của xã hội. Cái xã hội đưa ra có phải mục tiêu của mình không, nếu không phải mục tiêu của mình thì phải xắn tay áo lên đi tìm.
Không có gì để trăn trở, lo lắng, nhưng phải biết mình muốn gì. Khi biết mình muốn gì thì bước tiếp là phải đặt kế hoạch. Đặt kế hoạch không phải viết ra vài ba trang giấy rồi nói “đây là kế hoạch của tôi”. Kế hoạch là phải thật chi tiết, rõ ràng. Khi kinh doanh chẳng hạn, mình biết rõ thị trường thế nào, mình muốn như thế nào, sản phẩm của mình là gì, dịch vụ cung cấp ra sao, ai là đối thủ cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh của tôi là gì, tôi có những thế mạnh gì,… phải chi tiết, phải thực tế, đừng hoang tưởng.
 Kế hoạch rất chi tiết sẽ giúp cho người trẻ ra quyết định sáng suốt hơn?
Đúng vậy! Sau khi có kế hoạch rõ ràng, tiếp đó sẽ phân tích việc mình phải đối mặt với cái gì, phân tích tài chính chi tiết. Tôi có bao nhiêu tiền, tôi hy vọng sẽ kiếm được bao nhiêu doanh thu sau bao nhiêu tháng?! Vì nếu làm ăn mà không có lợi thì đi… làm công chức cho rồi. Ý tôi nói là phải có một phân tích tài chính, không ảo tưởng, mù mờ. Sau khi có đam mê thì đặt kế hoạch đi từ A đến B, sau đó tìm mạng lưới để hợp tác phát triển.
Mạng lưới gồm những đối tác mà họ có thể giúp bù đắp những cái mình còn thiếu. Mạng lưới gồm những người lớn tuổi, họ có thì giờ, họ sẽ tư vấn cho mình, cho mình những lời khuyên tốt đẹp. Mạng lưới là những mối quan hệ (những người giỏi về IT, giỏi về tài chính…) sẽ nâng đỡ mình.
Sau đó là kiến thức, làm gì cũng phải có kiến thức. Đi tìm, học, đọc…. Tiếp nữa là sức khỏe. Làm gì cũng phải có sức khỏe. Sau gần hai chục năm sống bên Trung Quốc, tôi muốn về Mỹ vì nghĩ ở đó còn nhiều cơ hội. Tôi gặp lại những bạn cũ, và quả đúng, tôi thấy Mỹ có quá nhiều cơ hội, rất năng động, sáng tạo. Phải nói là sáng tạo khủng khiếp. Cuối cùng tôi không ở Mỹ, vì sức khỏe tôi không còn nữa. Tôi không thể làm những chuyện như cách đây mấy chục năm nữa.
Làm việc với những người trẻ ở ta, ông thấy đâu là điểm cần khắc phục nhất ở họ?
Khi trở về Việt Nam làm việc, tôi nhận thấy thấy 3 yếu điểm nhất của một bộ phận không nhỏ giới trẻ VN cũng như của giới doanh nhân VN như sau. Tôi muốn tư duy của các bạn tránh vết xe đổ này, bởi đó là kẻ thù của các bạn.
Thứ nhất là lười biếng. Chuyện copy-paste, chuyện lười học… là có thật. Đi đến các trường đại học Mỹ thấy sinh viên cầm sách đọc bất cứ lúc nào rảnh, còn mình thì không ít người thích la cà “chém gió”, tối đi nhậu. Đó là việc lười về tận dụng thời giờ, còn có cái lười tệ hại hơn là lười suy nghĩ. Người ta nói sao nghe vậy, không bao giờ đặt lại câu hỏi “tại sao nó lại như vậy”, và “nó thực sự có phải như vậy không?” Tất nhiên các bạn ở đây cũng có một điều kém may mắn là khi lớn lên đã nằm trong một cái hộp và được bảo “nằm im đó”. Gia đình đặt vào, bạn bè đặt vào, xã hội cũng thế… suốt ngày ở trong cái hộp. Hãy đứng dậy đi ra khỏi cái hộp suy nghĩ và tìm tòi. Hiện nay, cuộc cách mạng lớn nhất là Google, nó mang lại kiến thức cho bất kỳ những người nào muốn tìm tòi. Ngày xưa tôi đi tìm đề tài, tôi leo lên thư viện lục tìm sách rất mệt mỏi, nhưng bây giờ tôi chỉ cần nằm nhà bấm bàn phím là có cả ngàn dữ kiện về bất cứ đề tài nào, kể cả chuyện… tán gái (Cười).
Thứ hai kẻ thù khác là ỷ lại. Không ít bạn trẻ vì được bố mẹ nuông chiều, thành ra ỷ lại, đến khi ra làm việc ỷ lại vào nhà nước, cơ chế xin-cho, dựa vào những quan hệ… Các bạn mất rất nhiều để tạo dựng cái quan hệ, thay vì tạo dựng sản phẩm, tạo dựng niềm tin cho khách hàng… Thói ỷ lại là kẻ thù của các bạn trẻ.
Thứ ba là dễ thất vọng, và bỏ cuộc. Bất cứ hành trình nào cũng có khó khăn, cam go, thử thách, nhưng phải coi những thất bại là bạn bè, thay vì là kẻ thù. Tôi trân trọng sự thất bại, vì nó cho mình nhiều thứ. Mình thành công, say men chiến thắng, mình tưởng mình bất bại,… tạo cho người ta một tính cách tự kiêu, tự đắc, dễ hại mình. Trong khi thất bại cho mình sự suy nghĩ, làm cho mình một chút đủ nhục để kích thích lòng tự trọng, và khi mình chiến thắng thì cảm giác huy hoàng hơn. Cho nên đừng sợ thất bại. Thất bại là những người bạn chứ không phải là kẻ thù.
Tôi tin rằng, khắc phục được 3 điểm trên sẽ giúp cho sự nghiệp tương lai của các bạn trẻ đi rất xa.
Xin cảm ơn ông!
Lê Ngọc Sơn (Thực hiện)