Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

Jared Diamond và vận mệnh các xã hội loài người

Jared Diamond và vận mệnh các xã hội loài người

Trần Hữu Dũng

Jared Diamond (người Mỹ, sinh năm 1937) hiện là giáo sư địa lí của trường đại học California tại Los Angeles (UCLA). Tuy ông có bằng tiến sĩ về sinh lí học, nhưng kiến thức của ông bao trùm hầu như mọi ngành, từ kiến trúc, ngôn ngữ, khảo cổ, đến động vật học, y học.  Ông cũng không phải là một học giả “tháp ngà”: ông đã đi khắp châu lục, thậm chí sống nhiều năm ở những nơi gần như “tận cùng thế giới” (như đảo Tân Ghi-nê, đảo Phục Sinh).   Hai cuốn sách của ông (một cuốn ra năm 1997, đoạt giải Pulitzer, thuộc hàng “best seller”, và một cuốn vừa ra cuối năm 2004) đã đặt ông vào hàng ngũ những nhà tư tưởng hiện đại có nhiều ảnh hưởng nhất ở Mỹ.

Từ khoảng đầu thập niên 90 đến nay, Jared Diamond bị nung nấu bởi một câu hỏi: Sau hơn 13000 năm lịch sử, tại sao sự phát triển của các giống dân trên thế giới đã trở thành quá khác nhau như ngày nay? Theo Diamond, các nhà viết sử (ít ra ở phương Tây) đã phạm một lỗi lầm vì họ đã nhìn không đúng khuôn mặt lịch sử của loài người.  Cụ thể, họ chỉ chú trọng vào các xã hội tương đối văn minh (ít nhất là có chữ viết) ở Âu Á (Eurasia) và Bắc Phi, và ngay trong dòng sử của lục địa Âu Á, họ lại chỉ tập trung vào phía Tây, ít chú ý đến các quốc gia phía Đông (nổi  bật là Trung Quốc, nhưng kể cả Nhật Bản và Đông Nam Á).  Hơn nữa, phần lớn sử kí hiện nay là chỉ nhìn vào khoảng 3000 năm sau này, dù rằng khoảng thời gian đó chỉ là 0,1% trong chiều dài 5 triệu năm loài người có mặt trên trái đất. Theo Diamond, nhờ những tiến bộ như sinh vật học phân tử, di truyển học, sinh địa lý, khảo cổ học, và ngôn ngữ học, đã đến lúc chúng ta có thể giải thích sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các nước.
  

I

Trong cuốn “Súng, Vi trùng, và Thép: Định mệnh của các Xã hội Loài người” (“Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies”, New York: Norton, 1997) Jared Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường và cấu trúc để giải thích tại sao các nước tây phương trở nên thống trị thế giới.  Mục đích của ông, Diamond bộc bạch ngay từ đầu, là nhằm triệt hạ những ý kiến cho rằng chủng tộc, văn hoá, và truyền thống có ảnh hưởng quyết định đến những khác biệt về công nghệ của những xã hội khác nhau, trên những châu lục khác nhau, trong suốt lịch sử.

Diamond tóm tắt phát hiện của ông như sau: Lịch sử của các nhóm dân khác nhau là khác nhau không phải vì sự khác biệt sinh học (biological) giữa các sắc dân, nhưng vì sự khác biệt về môi trường sinh sống ngay từ đầu.  Nói cách khác, lí do căn bản của sự bất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt nguồn từ rất xa trong quá khứ.  Nói thẳng hơn nữa: Jared Diamond hoàn toàn bác bỏ những lí thuyết “chủng tộc”, cho là giống dân này bẩm sinh “thông minh” hơn, hoặc “tài ba” hơn giống dân khác.

Hãy lấy năm 1500 sau công nguyên làm điểm mốc.  Có thể xem năm này là khởi điểm thời kì các nước châu Âu đi chinh phục các châu lục khác.  Lúc ấy thì các nước đã có những khác biệt về trình độ công nghệ và tổ chức chính trị.  Phần lớn Âu Á và Bắc Phi đã có những quốc gia ở vào thời kỳ đồ sắt, thậm chí vài nước đã sắp sang thời kì công nghiệp hoá.  Hai nhóm ở châu Mỹ (Inca và Aztec) đã là những đế quốc có dụng cụ bằng đá và bắt đầu thử nghiệm với đồng.  Những dân tộc khác thì kém phát triển hơn: đa số dân ở châu Úc, châu Mỹ, và châu Phi (dưới Sahara) vẫn còn hoàn toàn dựa vào nông nghiệp, thậm chí vài nhóm vẫn còn sống nhờ săn bắn và lượm nhặt với khí cụ bằng đá.

Lẽ dĩ nhiên, những khác biệt ấy về trình độ công nghệ vào khoảng năm 1500 là nguyên do gần gũi nhất đưa đến sự chênh lệch hiện nay trên thế giới.  Những đế quốc có khí cụ bằng sắt sẽ chinh phục hoặc tiêu diệt những nhóm dân chỉ có khí cụ bằng đá.  Nhưng Jared Diamond không hoàn toàn thỏa mãn với cách trả lời này.  Ông gặng hỏi:  Nhưng tại sao thế giới lại có tình trạng ấy vào năm 1500?

Ngược dòng lịch sử xa hơn nữa, từ khi thời Đại Băng Hà chấm dứt cho đến 11000 trước tây lịch, mọi người ở khắp các châu lục đều sống nhờ săn bắn và hái nhặt.  Như vậy, chính sự khác biệt về tốc độ phát triển (cụ thể là giữa lục địa Âu Á và những lục địa khác) từ năm 11000 trước tây lịch đến 1500 sau tây lịch đã đưa đến sự chênh lệch mà ta thấy khoảng năm 1500.

Jared Diamond đơn cử trường hợp châu Âu thuộc địa hoá Tân Thế giới.  Hiển nhiên, đó là vì người Âu có tàu bè, có tổ chức chính trị, có súng, có gươm thép, có ngựa, rồi cơ may lại đem theo những loại vi trùng bệnh tật giết thổ dân da đỏ ngay trước khi những người này đứng lên chống cự (vì thế có tên sách “Súng, Vi trùng, và Thép”).  Song Diamond không dừng lại ở đó, ông tra hỏi thêm: Thế thì tại sao dân châu Âu có những lợi điểm ấy mà thổ dân châu Mỹ không có (đặc biệt, tại sao các vi trùng của dân châu Âu lại độc địa đối với thổ dân châu Mỹ, thay vì ngược lại?).  Càng truy gặng, càng lùi ngược về quá khứ, Diamond càng thấy các yếu tố môi trường là quan trọng. 

Cụ thể, Diamond phân biệt bốn cách khác nhau về môi trường:

(1) Khác nhau thứ nhất giữa những đại lục là về các giống thảo mộc và động vật hoang dã mà con người có thể đem về nuôi trồng.   Ông lí luận rằng khả năng nuôi trồng là quyết định khả năng có lương thực thặng dư, và chỉ khi lương thực có thặng dư thì xã hội mới “nuôi” đuợc một thành phần “chuyên viên” giúp xã hội phát triển những lãnh vực như công nghệ, văn hoá, v.v.   Chính những phát triển này sẽ tạo cho xã hội liên hệ những ưu thế chính trị và quân sự so với láng giềng.

(2) Khác nhau thứ hai là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch (cả người lẫn vật) trong cùngmột lục địa.  Những sự chuyển dịch này là dễ dàng nhất ở lục địa Âu Á, bởi vì hướng chính của lục địa này là đông tây, tưong đối ít có những ngăn trở môi sinh và địa lí.

(3) Khác nhau thứ ba là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch giữa các lục địa. Vì những ngăn trở địa lí, nhiều lục địa không nhận được những công nghệ hay thú vật, thảo mộc từ các lục địa khác.  Song, Diamond nhìn nhận, sự biệt lập này lắm khi cũng có lợi vì nó khuyến khích phát triển những giống vật nuôi trồng tại địa phương, cũng như các công nghệ bản địa.

(4) Cái khác nhau cuối cùng là về dân số và diện tích đất đai.  Lục địa càng rộng, càng đông dân, thì càng có nhiều người phát minh.  Hơn nữa, trong một lục địa như vậy cũng sẽ có nhiều xã hội tranh đua nhau hơn, rồi chính sự tranh đua giữa các xã hội gần gũi nhau đó sẽ gây áp lực phát minh và cải cách, bởi lẽ những quốc gia “tụt hậu” sẽ bị các quốc gia khác thống trị, thậm chí tiêu diệt.

Một đoạn thích thú trong quyển sách là sự so sánh của Diamond về sự tiến bộ công nghệ giữa Trung Quốc và tây phương.  Trung Quốc đã có những hạm đội viễn dương vào những năm đầu của thế kỉ 15, nhưng sau đó không lâu thì lại giải thể hạm đội này, chấm dứt mọi hoạt động viễn du, vì lệnh triều đình (cụ thể là do sự tranh chấp quyền lực giữa hai phe trong triều đình lúc ấy). Ở châu Âu, trái lại, nhà thám hiểm Columbus đã tìm được tài trợ cho chuyến đi của ông từ triều đình Tây Ban Nha sau khi bị nhiều nơi khác từ chối.  Theo Diamond, sự thống nhất của Trung Quốc cho phép nước này canh tân trước phương tây, song cũng chính sự thống nhất sớm của Trung Quốc đã làm giảm đi khả năng “đổi mới” của nước này.  Triều đình ra lệnh một cái là mọi hoạt động canh tân dừng lại ngay!  Ở châu Âu thì khác: một tiến bộ bị ngăn chận ở nước này sẽ có thể được tiếp tục ở nước khác.  Các nước châu Âu đủ gần gũi nhau để chia sẻ những ý kiến mới, nhưng quyền hành lại không tập trung đến độ có thể hoàn toàn giết chết một ý mới.  Theo Diamond, đây là một bài học cho hiện tại, khi mà sự tập trung trong các môi trường truyền thông, nhà nước, và văn hoá ngày càng lớn

Tuy ít ai không nễ phục sự uyên bác của Jared Diamond về hàng loạt lãnh vực, song nhiều người vẫn không thấy thật sự bị thuyết phục bởi trọng tâm ý kiến của ông (mà họ nghĩ rằng) theo đó mọi việc đều là hậu quả tất nhiên của địa lí, cộng với tình trạng dân số ngày càng cao.  Nhiều ngừơi cho rằng Diamond coi nhẹ vai trò của trí tuệ và do đó đã không thấy hết sự quan trọng của khoa học trong tiến trình lịch sử.  Diamond cũng thường bị trách là nhìn tôn giáo quá phiến diện, bởi vì theo ông thì tôn giáo chỉ là một cách tổ chức xã hội. Tuy nhiên, trong lời bạt viết thêm khi cuốn này tái bản năm 2003, Diamond khẳng định không hề xem nhẹ những yếu tố về con người, tư tưởng, hay văn hoá.  Ông chỉ muốn nói rằng nhìn suốt nhiều nghìn năm lịch sử thì ảnh hưởng của môi trường và địa lí mới thực có tính quyết định.


II

Cuối năm 2004, Jared Diamond xuất bản cuốn “Sụp đổ:  Cách Xã hội Chọn Thất bại Hoặc Thành công” (“Collapse: How Societies Choose to Fail or Succeed”, New York: Viking).  Quyển này tiếp tục tiếp cận của quyển trước, tức là dựa vào những yếu tố môi trường và cơ cấu xã hội để giải thích lịch sử của xã hội ấy.  Tuy nhiên, trong khi cuốn trước tìm cách lí giải sự thống trị của văn minh tây phương trên phần lớn thế giới, thì bây giờ Diamond nghiền ngẫm nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của một số nền văn minh.

Trong cuốn này Jared Diamond trình bày khá chi tiết lịch sử của một số xã hội đã thất bại: Ba đảo ở các vùng bể khá ấm áp (đảo Phục Sinh, đảo Pitcairn, và Haiti), một đảo ở vùng khá lạnh (Grin-len), một vùng bán sa mạc ở lục địa (dân Anasazi miền Tây Nam Hoa Kỳ), một vùng rừng nhiệt đới ở lục địa (dân Maya ở Mê-hi-cô), bang Montana của Mỹ, cũng như vài trường hợp khác như cuộc tàn sát gần đây ở Rwanda, hay hiện trạng xã hội và kinh tế suy sụp ở Haiti.

Một lí do khiến nhiều xã hội thất bại, trong lúc nhiều xã hội khác thành công, theo Jared Diamond, là ảnh hưởng môi trường,  Ở những nơi khí hậu khắc nghiệt (như quá lạnh, hoặc quá khô) thì một  quyết định sai quấy dù nhỏ trong cũng đủ gây diệt vong.  Ở những nơi khác, như miền nhiệt đới, hoặc nơi nhiều mưa, nhiều nước ngọt, thì lầm lỗi trong quyết định sẽ không tai hại như thế.  Nhìn qua các lí do đưa đến sự diệt vong của những xã hội trong lịch sử, Diamond liệt kê năm yếu tố:

(1) Tổn hại môi trường.
(2) Thay đổi khí hậu, ví dụ như thời tiết lạnh hơn hoặc khô hơn. 
(3) Liên hệ giữa xã hội và các lân bang thù địch.
(4) Liên hệ với những láng giềng thân thiện.
(5) Cách đối phó của tập thể về mặt chính trị, kinh tế, xã hội trước những khó khăn xảy ra.

Tầm quan trọng tương đối của năm yếu tố trên tuỳ thuộc vào từng trường hợp.  Jared Diamond đưa ra nhiều dẫn chứng.  Trường hợp thứ nhất là sự sụp đổ của xã hội Pô-ly-nê-xia trên đảo Phục Sinh (mang tên ấy vì nhà thám hiểm Jacob Roggeveen đã tìm ra đảo này vào ngày lễ Phục Sinh năm 1722) ba thế kỉ trước đây là do yếu tố môi trường.  Yếu tố (2)-(4) thì gần như không có vai trò gì trong sự sụp đổ này.  Trường hợp thứ hai là sự sụp đổ của bộ lạc Anasazi ở Tây Nam nước Mỹ do ảnh hưởng của tổn hại môi trường và thay đổi thời tiết. 

Sự sụp đổ của văn minh Maya ở bán đảo Yucatan (Trung Mỹ) là do yếu tố (1) và (2), cộng với (5). Trước Columbus, văn minh Maya là văn minh cao nhất ở Tân Thế Giới.  Họ có những sáng tạo nổi bật về chữ viết, về thiên văn, về kiến trúc, và nghệ thuật.  Phát sinh ngay từ vùng ấy hơn 2500 năm trước tây lịch, các xã hội Maya ngày càng phát triển từ 250 sau tây lịch trở đi, đạt đến tột đỉnh vào khoảng thế kỉ thứ 8.  Nhưng đến thế kỉ thứ 10 thì nền văn minh này hoàn toàn sụp đổ:  90% dân số biến mất, những đô thị của họ bị rừng bao phủ.  Việc gì đã xảy ra?

Lí do chính là sự huỹ hoại môi trường: cây cối bị đốn, đất bị mòn, và nhiều bất cập về cách quản lí nước.  Hậu quả là số lượng lương thực bị giảm đi.  Những vấn đề này càng trầm trọng thêm vì hạn hán, mà lí do lại có thể tại con người phá rừng.  Thêm nữa, với đất trồng trọt và các tài nguyên khác ngày càng ít đi, giặc giã giành giựt xảy ra liên miên.

Tại sao các nhà vua Maya không thấy những vấn đề này?  Chắc chắn là họ thấy rừng ngày càng bị tàn phá, đất đai bị xói mòn?  Một phần lí do là vì họ sống xa dân chúng, không thấy những vấn đề ảnh hưởng đến đa số xã hội.  Bằng cách bốc lột dân chúng, họ sống phè phỡn trong lúc dân chúng chết đói.  Hơn nữa, những vị vua này lại tranh giành quyền lực với nhau, và đua đòi phô trương cuộc sống xa hoa.  Sống cách biệt với dân chúng, họ chỉ thành công ở một điều: đó là họ chết đói sau cùng!

Trường hợp thứ ba là sự sụp đổ của xã hội Pô-ly-nê-xia trên các đảo Henderson và Pitcairn ở Thái Bình Dương, phần nhỏ là do những tổn hại môi trường tự họ gây ra, nhưng phần lớn là sự mất ngoại thương vì một đối tác ngoại thương của họ bị sụp đổ.  Do đó có thể nói là sự sụp đổ này phần lớn không do lỗi của họ.  Về nhiều mặt, hai đảo này là thiên đuờng nhiệt đới, khá phong phú nhiều loại lương thực và tài nguyên thiên nhiên.  Tuy nhiên, họ phải nhâp khẩu từ đảo Mangareva (cách đó hàng trăm hải lí) các thuyền con, hoa mầu, gia cầm, và võ sò để làm khí cụ.  Rủi thay, xã hội Mangareva lại sụp đổ vì lí do giống như xã hội Maya (tàn phá rừng, đất mòn, và chiến tranh).  Mất những nguồn nhập khẩu, các xã hội Pitcairn và Henderson suy tàn cho đến khi mọi người một là chết, hai là bỏ đi nơi khác.

Trường hợp cuối cùng là sự sụp đổ của dân Norse ở Grin-len (Greenland) vì cả năm yếu tố kể trên.  Trước hết, phải nhận rằng tổ chức xã hội của dân Norse định cư ở Grin-len có nhiều lợi thế: những người này đã du nhập các thể chế văn hoá, tôn giáo v.v. khá phát triển từ nguyên quán của họ ở Bắc Âu.  Tuy nhiên, lỗi lầm của họ là không thấy cái tương khắc giữa sự tồn tại văn hoá và sự tồn tại sinh học.  Nói cách khác, thay vì thích ứng với môi trường Grin-len để sống sót (như láng giềng họ là dân Inuit, tuy không “văn minh” bằng, vẫn tồn tại đến ngày nay), dân Norse khư khư giữ lấy văn hoá (nhất là phong tục ăn thịt, nhất định dù chết cũng không ăn cá!). Họ bị diệt chủng sau hơn bốn thế kỉ là vì thế.

Tất nhiên nhiều xã hội khác cũng đã suy tàn, ngoài những ví dụ đơn cử trên đây, chẳng hạn như văn minh Khờ Me, hay tình trạng Rwanda, thổ dân châu Úc, nước Haiti, v.v.

Một điều khá nổi bật trong lí giải của Diamond là hầu hết các xã hội diệt vong đã gặp vận mạng ấy không phải vì các xã hội ấy bị “giết” bởi một cái gì bên ngoài, nhưng mà do chính họ “tự tử”.  Nhận xét này đặt cho Diamond một câu hỏi: tại sao quyết định tập thể lại thất bại?  Tất nhiên, cá nhân ai cũng có những quyết định sai lầm: trong hôn nhân, trong chọn lựa nghề nghiệp, trong kinh doanh, v.v.  Nhưng có nhiều yếu tố khác khiến tập thể có quyết định sai lầm, chẳng hạn như những xung khắc trong quyền lợi của thành viên, và những “tính động của nhóm” (group dynamics).  Tuy Diamond nhận rằng đây là một đề tài phức tạp không có một câu trả lời duy nhất, nhưng ông có thử phác hoạ một “lộ trình” đóng góp vào sự thất bại của các quyết định tập thể.

Ông chia “lộ trình” này làm bốn khâu đoạn.  Trước hết, một tập thể có thể không thấy một vấn đề trước khi nó xảy ra.  Thứ hai, khi vấn đề đó xảy ra thì tập thể ấy có thể không nhận chân được nó.  Thứ ba, khi tập thể nhận ra vấn đề thì họ cũng không cố gắng giải quyết nó.  Và cuối cùng, họ có thể cố giải quyết nhưng không thành công.

(1) Một tập thể có thể không dự đoán được sự cố trước khi nó xảy ra, vì nhiều lí do.  Một là họ chưa bao giờ trải nghiệm sự cố ấy trong quá khứ, do đó nó nằm ngoài tưởng tượng của họ.  Hai là, sự cố tương tự đã từng có trong quá khứ, nhưng đã quá xa trong dĩ vãng và không ai trong tập thể còn nhớ nó nữa (điều này đặc biệt nghiêm trọng cho những xã hội không có chữ víết).  Ba là, một xã hội không thấy trước vấn đề có thể vì họ suy diễn sai lầm (tương tự như, sau Thế Chiến I, Pháp xây dựng phòng tuyến Maginot để chống Đức vì nghĩ rằng trong tương lai Đức cũng sẽ xâm lăng Pháp theo chiến thuật mà Đức đã dùng).

(2) Sau khi sự cố đã thành hiện thực, một tập thể có thể không nhận thấy nó.  Có ba lí do.  Thứ nhất, nguyên nhân của nhiều hiện tượng rất khó thấy.  Chẳng hạn như nhiều tập thể đã không biết tại sao đất trồng trọt của mình trở thành kém màu mỡ đi.  Thứ hai, có thể là người quản lí sống nơi khác, không biết được tình huống đang xảy ra ở một địa phương.  Thứ ba, và thường nhất, một xã hội có thể không nhận thấy một hiện tượng khi hiện tượng đó xảy ra dần dần, qua thời gian dài, lại vừa có thể dao động lên xuống.  Ví dụ như ngày nay nhiều người phủ nhận là trái đất ngày càng ấm, vì nếu nhìn vào nhiệt độ trung bình thì có năm thì nóng, có năm lại lạnh hơn bình thường.  Chỉ khi nhìn vào xu huớng nhiệt độ hàng thế kỉ thì mới thấy nó có đà lên cao.

(3) Song, theo Diamond, lí do quan trọng nhất là dù sự cố đã xảy ra, và tập thể nhận xét đúng, nhưng không đối phó được vì một thiểu số sẽ theo đuổi quyền lợi (ích kỉ) của bản thân họ dù hành động ấy sẽ tổn hại, thậm chí hoàn toàn trái ngược quyền lợi cộng đồng.  

(4) Cuối cùng, một tập thể có thể không phạm những lỗi lầm (1)-(3) nhưng cố gắng của họ là không hiệu quả, giải pháp quá tốn kém, không đủ mạnh, quá chậm, hoặc gây ra những tai hại khác.

Vậy, Jared Diamond kết luận, xã hội đã có nhiều quyết định thãm hại do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên, ông cũng bảo rằng không phải là xã hội nào cũng thất bại, bằng cớ là hiện nay loài người vẫn còn tồn tại! Hơn nữa, nhân loại ngày nay có nhiều lợi điểm hơn trong quá khứ.  Một là chúng ta có nhiều thông tin hơn về kinh nghiệm những nơi khác, đang xảy ra cũng như trong quá khứ, mà chúng ta có thể học hỏi được.  Hai là, nhờ “toàn cầu hoá”, mỗi quốc gia không còn tuỳ thuộc vào chỉ một quốc gia khác.  Về khoa học và công nghệ, tuy Diamond nhìn nhận rằng nó có ích, song ông cũng cảnh báo là chính công nghệ có thể gây ra nhiều hiểm họa mới.  (Bill Gates, trong bài điểm sách của Jared Diamond, cũng nhất trí điều này.)

Tuy Jared Diamond có những khám phá mới lạ và nhiệt tình biện hộ cho cách lí giải lịch sử  của mình, ông cũng nhận rằng nhiều lối giải thích khác (chẳng hạn như ý kiến nổi tiếng của Thomas Carlyle theo đó lịch sử là do những “vĩ nhân” uốn nắn) có thể có ích hơn trong những trường hợp nào đó (ví dụ như khi giải thích những giai đoạn ngắn).  Nhiều người quý mến thái độ hoà nhã này của Diamond, song cũng có người cho rằng ông có thói “ba phải”.   Một chỉ trích nữa là Diamond tuyển chọn những kinh nghiệm lịch sử quá cá biệt.  Tuy nhiên, muốn đánh giá đúng đắn lí thuyết của Jared Diamond, cần phải đọc toàn bộ tác phẩm của ông.  Một bài giới thiệu ngắn như thế này, dù trung thực, cũng không thể dồi dào và súc tích như nguyên bản.

Trần Hữu Dũng
Dayton, Hoa Kỳ
1/2005

link: http://www.viet-studies.info/THDung/Doc_JaredDiamond.htm

[National Geographic] Việc trồng trọt tác động đến tư duy con người

Tác giả: Ed Yong
Duy Đoàn chuyển ngữ
What you farm affects your thinking
Ảnh: Jim Richardson, National Geographic Creative

Lúa gạo và lúa mì không chỉ làm lương thực cho nhân loại. Chúng còn tác động đến cách họ tư duy – theo rất nhiều cách khác nhau.
Đây là kết quả một nghiên cứu được công bố vào ngày 9/5/2014 trên tập sang Science, trong đó họ so sánh những người đến từ những vùng khác nhau của Trung-quốc. Các nhà nghiên cứu, dẫn đầu là Thomas Talhelm thuộc trường University of Virginia (Charlottesville, Mĩ), đã phát hiện rằng những người đến từ những vùng trồng lúa gạo có lối tư duy tương thuộc nhau nhiều hơn và hướng đến tổng thể hơn so với những người đến từ những khu vực trồng lúa mì.
Talhelm cho rằng những khác biệt này nảy sinh bởi vì người ta cần hợp tác nhiều hơn và nỗ lực chung nhiều hơn trong việc trồng lúa gạo so với việc trồng lúa mì. Để gieo trồng và gặt hái lúa được thành công, các nông dân phải làm việc cùng nhau nhằm tạo dựng nên những hệ thống tưới tiêu phức tạp và thiết lập những trao đổi lao động với nhau. Qua thời gian, nhu cầu làm việc nhóm này đã nuôi dưỡng tâm lí tương thuộc và hướng đến tập thể. Tuy nhiên, lúa mì lại có thể phát triển độc lập, thế nên những nông dân lúa mì trở thành những người cá nhân chủ nghĩa hơn.
Talhelm phát hiện rằng thậm chí những người từ những khu vực lân cận ở hai bên bờ sông Dương-tử cũng tư duy khác nhau nếu họ trồng những loại cây khác nhau. “Tôi không thấy có lí thuyết nào khác giải thích lí do tại sao bạn lại thấy những khác biệt này giữa những người ở hai khu vực láng giềng,” ông cho biết.
Mặc dù đội ngũ nghiên cứu tập trung vào Trung-quốc, nhưng kết quả của họ cũng có thể giải thích được những khác biệt bao quát hơn giữa các nước. Những quốc gia Đông Á như Nhật và Nam Triều-tiên có nền lịch sử lâu đời về trồng lúa, và dân số của họ có tính tương thuộc và ít cá nhân chủ nghĩa hơn những người dân ở các nước khác vốn cũng thịnh vượng tương đương.
Các kết quả còn chứng tỏ rằng tâm lí Đông Á khác biệt hơn những gì thường được khắc hoạ. Người ta thường nghĩ vùng này là trung tâm của tâm lí tương thuộc, nhưng khu vực trồng lúa mì ở phía bắc Trung-quốc lại cho thấy người dân ở đây ở tư duy cá nhân chủ nghĩa và tư duy phân tích vốn có mối liên hệ điển hình với tư duy Tây phương.
“Lĩnh vực tâm lí học văn hoá chỉ mới tồn tại khoảng 20 năm nay, và phần lớn lĩnh vực này tập trung vào sự tương phản giữa Đông và Tây. Người ta đang chán ngán chuyện đó,” Talhelm cho biết. “Người ta so sánh người Mĩ với Hong Kong? Nhật? Nó giống như một lựa chọn ngẫu nhiên. Gần như không có suy xét nào dành cho sự khác biệt hiện hữu trong khu vực Đông Á, và tôi hi vọng nghiên cứu này có thể thúc đẩy [sự nhìn nhận] của khác biệt đó.”
Kiểm tra những nét tâm lí
Những khoa học gia khác đã rút ra được những điểm khác nhau giữa tác động tâm lí của việc làm nông cộng tác với những việc làm mang tính cá nhân hơn như chăn gia súc hoặc đánh cá. Khi chứng tỏ rằng những kiểu làm nông khác nhau cũng có thể ảnh hưởng đến tâm lí chúng ta, “công trình này đã đưa luồng suy nghĩ đó đi xa thêm một bước,” theo lời của Richard Nisbett, nhà tâm lí học ở trường University of Michigan (Ann Arbor, Mĩ).
Talhelm nảy ra được “lí thuyết lúa gạo” sau vài năm làm giáo viên tại Trung-quốc và chú ý đến những khác biệt văn hoá giữa miền bắc và miền nam. “Người dân miền bắc dường như thẳng thắn hơn, trong khi người dân miền nam lại lo âu nhiều hơn về sự hoà hợp và thường tránh xung đột,” ông cho biết.
Khi đó ông tìm hiểu được rằng sông Dương-tử chia đất nước này thành hai, một miền bắc trồng lúa mì và một miền nam trồng lúa gạo, và cả hai miền này đều trung thành với cây trồng tương ứng của mình suốt nhiều thế hệ.
Để xem thử những khác biệt nông nghiệp này có dẫn đến những nét tâm lí tương phản nhau không, đội ngũ của Talhelm đã tuyển chọn 1162 sinh viên người Hán từ khắp đất nước và cho họ xem bộ ba đồ vật, chẳng hạn tàu lửa, xe buýt, và đường ray. Khi được yêu cầu ghép đôi hai món lại với nhau, những sinh viên đến từ những vùng trồng lúa gạo thường chọn những cặp đôi hướng đến cái tổng thể dựa trên mối quan hệ giữa hai món đó (tàu lửa và đường ray), trong khi những người đến từ vùng trồng lúa mì lại chọn những cặp đôi theo hướng phân tích dựa trên những nét tương đồng trừu tượng (tàu lửa và xe buýt).
Đội ngũ nghiên cứu phát hiện những khác biệt này ở những khu vực kề nhau nằm hai bên bờ sông Dương-tử, vốn dường như loại trừ đi các yếu tố khác như thời tiết hoặc ngôn ngữ để giải thích khác biệt rõ nét về quan điểm.
Những tác vụ khác cũng được dùng đến nhằm đo lường những khác biệt, và cho thấy những kết quả tương tự. Khi được yêu cầu vẽ những vòng tròn đại diện cho những thành viên trong mạng xã hội của mình, những người đến từ khu vực lúa gạo vẽ bản thân họ nhỏ hơn một chút so với bạn bè mình, trong khi những người đến từ khu vực lúa mì vẽ bản thân hơn lớn hơn 1.5 mm. Và trong một viễn cảnh giả thuyết, những người đến từ khu vực lúa gạo có xu hướng thưởng một người bạn thành thật hơn và ít có xu hướng phạt người không trung thực – một dấu hiệu của tính thiên vị trong nhóm vốn lan toả khắp các nhóm tập thể.
Câu hỏi triệu dollar
Ngược lại, đội ngũ nghiên cứu không phát hiện được hậu thuẫn nào cho hai lí thuyết khác trong lĩnh vực tâm lí học văn hoá, vốn cố gắng giải thích làm thế nào mà những khác biệt trong lối tư duy của chúng ta lại bị ảnh hưởng từ văn hoá hoặc môi trường nơi chúng ta sống. Một lí thuyết đề xuất rằng khi xã hội trở nên thịnh vượng hơn và có học thức hơn, thì công dân ở đó sẽ trở nên tự lập hơn và chuyển sang lối tư duy phân tích, độc lập. Lí thuyết còn lại cho rằng những căn bệnh có thể lây truyền sẽ tạo điều kiện hình thành nên những cộng đồng tập thể và hạn hẹp, bởi vì việc tương tác với người lạ sẽ dãn đến nguy cơ lây nhiễm.
Không có xu hướng nào trong số đó xảy ra đúng ở Trung-quốc, nơi sự lựa chọn cây trồng là yếu tố duy nhất có mối tương quan với tính đa dạng tâm lí ở đất nước này, theo nghiên cứu cho biết. Tuy thế, Talhelm không muốn thổi phồng những phát hiện của mình: Văn hoá là thứ phức hợp và một biến số không giải thích được mọi sự,” ông cho biết.
“Các kết quả này thực sự gây tò mò,” theo lời Francesca Bray, nhà nhân học ở trường University of Edinburg (Scotland), người nghiên cứu nền nông nghiệp Trung-quốc. Nhưng bà còn thêm vào, “Tôi hồ nghi về những bài kiểm tra tâm lí học, chúng có vẻ giản đơn đến lạ kì, thậm chí có vẻ hàm hồ nữa, căn cứ trên vai trò diễn giải nặng nề mà chúng phải gánh vác.”
Bà còn lưu ý rằng đội ngũ này nghiên cứu những sinh viên đại học ở những khu vực nông nghiệp khác nhau thay vì những nông dân thực thụ. Các nhà nghiên cứu cho rằng khuynh hướng văn hoá do việc trồng lúa gạo tạo ra có thể kéo dài nhiều thế hệ và tác động đến những người chưa từng tự mình trồng lúa gạo, nhưng Bray nghĩ rằng đó là một tuyên bố quá chung chung: “Tôi hẳn là sẽ trân trọng một số gợi ý về lí do tại sao chuyện này có thể thành như vậy,” bà nói.
“Đó là câu hỏi triệu dollar,” Talhelm cho biết. Ông nghi ngờ rằng những lối dạy con cái, trường học, và những định chế khác hết thảy đều có thể góp phần vào sự lan toả những phép chuyển nghĩa về văn hoá từ thế hệ này sang thế hệ khác. “Văn hoá có nhiều quán tính gắn với nó,” ông cho biết.
Chuyển ngữ tại Sài-gòn
20140512
Nguồn:
Yong, Ed. “What You Farm Affects Your Thinking, Studay Says. “ National Geographic, 5/2014:http://news.nationalgeographic.com/news/2014/05/140508-rice-wheat-psychology-china-food-thinking-world

Những vấn đề lịch sử trong cuốn “Súng, vi trùng và thép” của Jared Diamond

Cuốn sách “Súng, vi trùng và thép” là nỗ lực của Jared Diamond nhằm đi tìm câu trả lời tối hậu cho một thắc mắc dường như quá hiển nhiên, như chính tác giả đã đề cập ngay phần đầu sách: “Tại sao lịch sử đã diễn ra trên mỗi châu lục một khác?” Vì e rằng sẽ có nhiều người ngay lập tức nghĩ đến việc cuốn sách sẽ xoay quanh vấn đề về chủng tộc, nên ngay sau khi nêu câu hỏi như thế thì ông Jared Diamond liền đính chính lại ngay: “Nếu như câu hỏi này lập tức khiến bạn nhún vai cho rằng bạn sắp phải đọc một luận văn phân biệt chủng tộc thì xin thưa, không phải vậy đâu: như bạn sẽ thấy, những lời đáp cho câu trả lời này tuyệt không bao hàm những sự khác biệt về chủng tộc.”
Đúng như vậy, nếu xem xét cho rốt ráo và kĩ càng câu hỏi mà ông Jared Diamond đưa ra, thì quả thật việc đưa ra nguyên do vì mỗi chủng tộc phát triển khác nhau là một câu trả lời hoàn toàn dở dang, nửa vời và thậm chí là một câu trả lời thiếu trách nhiệm. John Locke, triết gia người Anh ở thời kì Ánh sáng bên châu Âu, đã từng phát biểu cụm từ tabula rasa (blank sheet, tức “tờ giấy trắng”) để ý chỉ rằng tâm thức con người ta khi vừa mới sinh ra giống như một tờ giấy trắng vậy, và phải qua thời gian thì “tờ giấy trắng” đó mới được tô điểm thêm bởi kinh nghiệm, được hình thành thông qua cảm nhận và phản hồi từ thế giới bên ngoài, để từ đó tạo nên tri thức của chính bản thân [1]. Khái niệm tabula rasa này nói về tâm thức con người, mà cũng có thể hiểu rộng hơn về tâm thức của cả nhân loại, tức là từ thuở ban đầu, cả nhân loại đều có cùng một xuất phát điểm là từ châu Phi, và tâm thức nhân loại lúc bấy giờ cũng tựa như tabula rasa vậy, thế nhưng qua thời gian, vì nguyên do nào đó mà hình thành nên những chủng tộc khác nhau. Lịch sử diễn ra ở mỗi nơi một khác là do chủng tộc ở những nơi đó khác nhau, vậy thì tại sao những chủng tộc đó lại khác nhau, khi loài người đều có cùng xuất phát điểm như nhau?
Như Jared Diamond cũng có đề cập trong phần đầu sách, ngay cả trong công trình nghiên cứu lịch sử cực kì công phu của Arnold Toynbee là bộ Study of History 12 tập, thì ông Toynbee cũng ít quan tâm đến thời tiền sử, “thế nhưng, những cội rễ của sự bất bình đẳng trong thế giới hiện đại nằm trong chính thời tiền sử đó”. Câu trả lời cho cái vấn đề đặt ra ở trên theo Jared Diamond có thể được tóm gọn trong một câu thế này: “Diễn trình lịch sử của mỗi dân tộc một khác do những khác biệt giữa môi trường sống của các dân tộc, chứ không phải do những khác biệt về sinh học giữa bản thân các dân tộc đó.” Có vẻ như câu trả lời cũng đơn giản không kém gì so với câu hỏi đặt ra. Thế nhưng, cũng theo Jared Diamond, có lẽ vì chính câu trả lời quá sức đơn giản nên người ta lâu nay đã không thật sự nghiêm túc xem xét nó như là căn nguyên tối hậu để tìm hiểu nó kĩ càng hơn. Thế là, để diễn giải rõ hơn cho câu trả lời tối hậu của mình, thì Jared Diamond đã đi đến những góc cạnh khác nhau trong lịch sử hình thành nhân loại: từ việc chuyển hoá từ săn bắt hái lượm sang làm nông, đến việc dựa trên những chứng cứ khoa học để khảo sát việc các loài thực vật và các loài động vật đã phát triển và được thuần hoá ở mỗi nơi khác nhau ra sao, rồi vì nguyên nhân nào mà khu vực Á-Âu lại phát triển nhanh hơn khu vực châu Mĩ, những phát kiến và nhu cầu của con người có quan hệ ra sao, v.v.. Và phần diễn giải từ những góc cạnh khác nhau như thế mới chính là điểm quan trọng và mạnh mẽ nhất mà Jared Diamond muốn mang lại cho người đọc, chứ không phải chỉ đơn thuần cung cấp những câu trả lời.
1. Sản xuất lương thực
Qua khảo sát lịch sử, có thể thấy rằng việc sản xuất lương thực là điểm mấu chốt trong việc phát triển văn minh. Nơi nào sản xuất lương thực mạnh hơn thì nơi đó sẽ phát triển nhanh hơn. Từ ngàn xưa, con người đã sản xuất lương thực bằng cách thuần hoá cây dại và thú hoang. Bằng cách xoay quanh hai vấn đề chính về môi trường sinh thái và hoàn cảnh địa lí, Jared Diamond lần lượt lí giải nguyên do tại sao con người thuần hoá thực vật và động vật ở mỗi chỗ lại khác nhau. Qua những ví dụ cụ thể dựa trên cơ sở khoa học, tác giả đã bác bỏ ý kiến cho rằng việc tiếp thu thực vật và động vật là do bản thân người dân ở đó, ông cho rằng nguyên nhân nằm ở chỗ khác biệt giữa số loài cây, loài thú hoang dã  ở mỗi nơi, tức là tuỳ thuộc vào vùng sinh vật và điều kiện môi trường. Thêm nữa, Jared Diamond còn đi đến việc lí giải tại sao việc thuần hoá loài thú hoang dã chỉ xảy ra đối với một lượng rất ít các loài, chỉ có 14 loài trong số 148 loài thú hoang dã lớn, ăn cỏ và sống trên đất liền của thế giới là được thuần hoá. Bằng cách nêu ra một nguyên lí mà Jared Diamond đặt tên là nguyên lí Anna Karenina, do dựa vào câu mở đầu nổi tiếng trong cuốn tiểu thuyết Anna Karenina của Lev Tolstoy: “Các gia đình hạnh phúc đều giống nhau; mỗi gia đình bất hạnh đều bất hạnh theo một cách riêng.” Từ đó Jared Diamond rút ra một nguyên lí áp dụng cho việc lí giải sự thuần hoá loài vật: “Các loài vật thuần hoá được thảy đều giống nhau; mỗi loài vật không thuần hoá được đều không thuần hoá được theo một cách riêng.” Từ nguyên lí đó, tác giả đã tóm được những nguyên nhân làm cho việc thuần hoá các loài nào đó không thành công. Sở dĩ ở loài thú tác giả rút ra đuợc những nguyên nhân lí giải, còn ở các loài cây thì tác giả không rút ra được những nguyên nhân tóm gọn là vì số lượng động vật phải khảo sát ít hơn nhiều so với số lượng thực vật (148 loài thú so với 200.000 loài thực vật).
2. Sự bành trướng sản xuất lương thực
Ngoài việc đi tìm hiểu cội nguồn của sản xuất lương thực, Jared Diamond còn đề cập đến việc tìm hiểu sự bành trướng của sản xuất lương thực là một việc làm cực kì quan trọng “trong việc giúp ta thấu hiểu những khác biệt về địa lí trong sự phát sinh súng, vi trùng và thép.”.  Theo tác giả, thì mấu chốt vấn đề nằm ở sự khác biệt địa lí trên thế giới. Nếu như khu vực Á-Âu trải dài theo hướng Đông-Tây thì khu vực châu Mĩ theo hướng Bắc-Nam, và trục Bắc-Nam này cũng đúng với châu Phi dù ở mức thấp hơn. Vì một lẽ “các địa điểm được phân bố theo hướng đông và hướng tây trên cùng một vĩ độ có chung một độ dài ngày đêm và những biến thiên về mùa giống hệt nhau”, nên khu vực Á-Âu thuận lợi hơn rất nhiều trong việc bành trướng sản xuất lương thực, do các loài thực vật và động vật hoàn toàn thích nghi được với chỗ ở mới của mình mà không gặp trở ngại về mặt môi trường. Ngược lại với sự bành trướng dễ dàng ở khu vực Á-Âu là sự phát tán đầy khó khăn ở phần còn lại thế giới như châu Phi và châu Mĩ. Ở châu Phi do “điều kiện nhiệt đới trải dài 2000 dặm giữa Ethiopia và Nam-phi là một rào ngăn không thể vượt qua.” Cũng tương tự vậy ở châu Mĩ, “vùng đất thấp nóng nực chen vào ở Trung Mĩ” đã ngăn chặn sự bành trướng của các loài theo hướng Bắc-Nam hay ngược lại. Như vậy, có thể thấy tầm quan trọng của việc cùng vĩ độ như là yếu tố quyết định cho khí hậu, điều kiện sinh trưởng, để từ đó việc phát tán dễ dàng hơn; tuy thế vĩ độ cũng chẳng phải là yếu tố duy nhất, vẫn còn đó những yếu tố về mặt địa hình và môi trường sinh thái, vì không phải lúc nào hai nơi ở cùng một vĩ độ đều có chung khí hậu. Ảnh hưởng của các hướng trục gây trực tiếp lên sự bành trướng của sản xuất lương thực, từ đó tác động gián tiếp lên những thứ khác như sự phát minh bánh xe, chữ viết và các phát minh khác.
Trục chính của các lục địa
(Hình lấy từ cuốn Guns, Germs and Steel của Jared Diamond)
3. Sự phát minh
Khi con người đạt được những nhu cầu cơ bản của mình về ăn, mặc, ở, thì tiếp theo lịch sử nhân loại được chứng kiến sự ra đời của những phát minh. Xưa nay thường có quan niệm cho rằng “nhu cầu sinh ra phát minh”, nhưng theo Jared Diamond nêu ra ở chương “Mẹ đẻ của nhu cầu” trong cuốn “Súng, vi trùng và thép” thì thực tế rất nhiều lúc không phải vậy, hay nói đúng hơn chỉ một số ít phát minh là phù hợp với quan niệm thường tình cho rằng nhu cầu là mẹ của phát minh. Jared Diamond đã nêu ra một ví dụ về chiếc máy quay đĩa của Thomas Edison: khi Edison tạo ra cái máy này thì cái công dụng thu các bản nhạc không được ông tính đến, sau này người ta chế ra máy nghe nhạc bằng cách kết hợp máy quay đĩa của Edison để phát ra những bản nhạc mỗi khi có người nhét tiền xu vào. Jared Diamond cho rằng “nhiều hoặc thậm chí hầu hết phát minh đều ra đời bởi những người vốn dĩ thích tò mò hoặc tính ưa táy máy, chứ thoạt tiên không hề có nhau cầu về cái sản phẩm họ đang muốn làm ra kia”, và “chỉ sau khi phát minh đã được sử dụng trong một thời gian đáng kể thì người tiêu thụ mới bắt đầu cảm thấy họ ‘cần’ nó”.
Một điểm khác về những phát minh được Jared Diamond đề cập đến: việc các phát minh ra đời và được đưa ra ứng dụng đời sống là hệ quả của một quá trình tích luỹ lâu dài theo thời gian chứ không phải là một công trình đơn lẻ của riêng một người hay một nhóm người nào. Lấy ví dụ về động cơ hơi nước, hiện nay khi nhắc đến động cơ hơi nước thì người ta sẽ nhắc đến ngay James Watt như người phát minh ra nó vào năm 1769, nhưng thực chất James Watt chỉ là người cải tiến và hoàn thiện động cơ hơi nước vốn đã xuất hiện từ trước đó. Cái ý tưởng về động cơ hơi nước có sớm nhất từ thời Hellenistic (từ năm 323 đến 30 TCN, và vì một số lí do nhất định nên thời kì này còn kéo dài đến năm 330 mới kết thúc [2]) và thiết bị đó do Hero của thành Alexandria sáng tạo ra, và ngày nay người ta hay gọi nó là turbine của Hero. Đó là một khối cầu rỗng, nhỏ, được gắn vào đó hai cái ống, khối cầu đó được gắn vào một nồi hơi dùng tạo ra hơi nước, khi hơi nước thoát ra khỏi những cái ống rỗng của quả cầu thì quả cầu đó tự nó di chuyển xoay vòng. Mãi đến thế kỉ 17, thì cái ý tưởng động cơ hơi nước này mới xuất hiện trở lại ở châu Âu, với mẫu thiết kế của kĩ sư người Anh Thomas Savery (1650-1715), mà thực chất Savery cũng chỉ theo mẫu phác thảo thiết bị dùng piston-cylinder của Denis Papin (1647-1712, nhà vật lí người Anh gốc Pháp) vào khoảng năm 1690 , mà cái ý tưởng về việc tạo ra lực bằng hệ thống piston-cylinder đã được Otto von Guericke (1602-1686, nhà vật lí người Phổ) đưa ra trước đó vào năm 1672 rồi. Từ mẫu của Savery cuối thế kỉ 17, năm 1698, kĩ sư người Anh Thomas Newcomen (1663-1729) cho ra một cái động cơ hơi nước vào năm 1712, để rồi sau đó năm 1769 thì James Watt thực hiện cuộc cải tiến cuối cùng, hoàn thiện động cơ hơi nước, và từ đó về sau tên tuổi của James Watt gắn liền với động cơ hơi nước.
Turbine của Hero
(Hình lấy từ cuốn How Invention Begins – Echoes of Old Voices in the Rise of New Machines của John H. Lienhard, nhà Oxford, 2006)
Từ ví dụ động cơ hơi nước ở trên, có thể thấy rõ rằng hầu hết các phát minh sau thời tiền sử hoặc thời cổ đại đều có bóng dáng của những vị tiền bối trước nó, hay nói cách khác mỗi phát minh ra đời đều là một tổ hợp, một sự trộn lẫn của nhiều ý tưởng khác nhau được tích luỹ qua năm tháng. Nói rộng ra ngoài cuốn sách “Súng, vi trùng và thép”, xét về mặt lịch sử, điều này (việc phát minh là tổ hợp của những ý tưởng) có lẽ có nguồn gốc ở đặc tính chỉ có ở loài người: trao đổi. Bắt đầu từ việc trao đổi vật chất của con người từ thời săn bắt-hái lượm, khi người đàn ông đi làm việc săn bắt, còn đàn bà hái lượm, rồi sau đó họ trao đổi nhau để có được cả thịt lẫn rau củ. Sau khi trao đổi vật chất, thì con người bắt đầu trao đổi nhau về những thứ phi vật chất, tức là ý tưởng. Các ý tưởng giao phối với nhau, sản sinh ra một ý tưởng khác thừa hưởng được những đặc tính của những ý tưởng đó. [3]
Phát minh ra một sự vật, rồi đưa nó vào ứng dụng trong đời sống, hoặc một phát minh từ đâu du nhập tới và được xã hội tiếp nhận. Nhưng một phát minh để có thể đưa vào ứng dụng còn cần có những điều kiện khách quan hậu thuẫn phía sau, nếu không nó chỉ trở thành một món đồ chơi không hơn không kém. Chẳng hạn như người châu Mĩ bản địa đã từng phát minh ra bánh xe, nhưng chỉ vì thiếu gia súc thích hợp để kéo xe, nên bánh xe ở khu vực đó không có đất dụng võ và xem ra “chẳng có ưu thế gì so với những phu khuân vác”. Yếu tố này được Jared Diamond định nghĩa là “công nghệ mới phải có ưu thế tương đối về kinh tế so với công nghệ hiện có”, nhưng nếu hiểu rộng hơn, những phát minh muốn được đưa vào ứng dụng, hoặc muốn làm con người ta thấy được cái ứng dụng rõ ràng của nó thì phát minh đó cần phải được ra đời ở một nơi có sẵn những điều kiện khách quan nhằm hỗ trợ nó, như những chiếc xe có bánh thì cần phải có gia súc kéo thì cái dụng của bánh xe mới hiện rõ ra trong tâm trí con người thời bấy giờ..
4. Hệ quả và ảnh hưởng từ lịch sử
Vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu (The Fertile Crescent, thuộc khu vực Trung Đông) và Trung-quốc có những lợi thế ban đầu vượt trội so với phần còn lại thế giới, tuy nhiên, tại sao châu Âu mới là lục địa đi khai phá và xâm chiếm các châu lục khác, chứ không phải là vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu hay Trung-quốc? Nguyên do đâu mà Lưỡi liềm Phì nhiêu và Trung-quốc lại tự đánh mất cái lợi thế ban đầu to lớn của mình?
Trong phần kết của “Súng, vi trùng và thép”, Jared Diamond đã đưa ra những lí giải cho câu hỏi nêu trên. Vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu do gặp phải một bất hạnh là “phát sinh ở một môi trường nhạy cảm về sinh thái”, ở khu vực này lượng mưa ít “nên tốc độ cây mọc lại không theo kịp tốc độ huỷ diệt rừng”, dần dần vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu tự đánh mất chính mình, vì lợi thế về mặt môi trường và địa lí chính là thứ đưa vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu trở thành trung tâm chủ chốt của nền văn minh nhân loại, khi môi trường bị huỷ hoại thì lẽ dĩ nhiên vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu không thể phát triển thêm được nữa.
Tuy vậy, với trường hợp của Trung-quốc thì vấn đề lại hoàn toàn khác. “Trung-quốc có những ưu thế không bàn cãi: sản xuất lương thực phát sinh ở đây cũng sớm gần như ở Lưỡi liềm Phì nhiêu, sự đa dạng sinh thái từ bắc Trung-quốc xuống nam Trung-quốc và từ vùng duyên hải đến vùng núi cao Tây-tạng làm phát sinh nhiều chủng loại cây trồng, vật nuôi và công nghệ rất khác nhau, diện tích rộng mênh mông, và đất đai năng sản có khả năng nuôi sống một dân số khu vực cao nhất trên thế giới, và một môi trường ít khô hơn hoặc ít nhạy cảm hơn về sinh thái so với môi trường của Lưỡi liềm Phì nhiêu.” Có thể thấy Trung-quốc có những đặc điểm môi trường và địa lí gần như hoàn hảo, ưu thế mà Trung-quốc có được lúc ban đầu thậm chí còn lớn hơn của vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu, nơi được mệnh danh là cái nôi văn minh của nhân loại. Như thế, có thể suy ra được rằng, nếu hoàn cảnh khách quan không ngăn chặn sự phát triển của Trung-quốc, thì chỉ có thể là hoàn cảnh chủ quan vậy. Trung-quốc có được sự thống nhất về chính trị từ rất sớm (từ năm 221 TCN, thời vua Tần Thuỷ Hoàng), họ có một ngôn ngữ duy nhất, lại có một nền văn hoá thống nhất trong suốt một quãng thời gian rất dài. Nhờ sự gắn kết và hoàn cảnh địa lí như vậy, mà Trung-quốc đạt được những bước tiến to lớn trong thời gian đầu. Tuy nhiên, hoàn cảnh thống nhất về chính trị như thế đã gây ra rào cản đối với sự phát triển sau này của Trung-quốc, vì chỉ cần một quyết định nhất thời của kẻ đứng đầu khối thống nhất ấy, là đủ ngăn chặn sự đổi mới. Để minh hoạ, Jared Diamond đã đưa ra ví dụ về những chuyến hải trình mà Trung-quốc và châu Âu đã đồng thời làm cùng lúc vào thế kỉ 15:
“Vào đầu thế kỉ 15, Trung-quốc đã cử những hạm đội tìm châu báu mỗi đoàn gồm hàng trăm chiếc thuyền dài tới 400 bộ (122 mét) và tổng số thuỷ thủ đoàn lên tới 28.000 người, băng qua Ấn-độ-dương đến tận bờ biển Đông Phi từ hàng mấy thập kỉ trước khi ba con tàu bé tí của Columbus băng qua Đại-tây-dương hẹp hơn nhiều để tới được bờ đông châu Mĩ.”
Xuất phát sớm hơn là thế, nhưng những hạm đội đó của Trung-quốc không thể đi tiếp để băng qua Thái-bình-dương để chiếm bờ tây châu Mĩ. Vì trong thời điểm đó ở Trung-quốc đang xảy ra tranh chấp trong triều đình, giữa phe hoạn quan và đối thủ của họ, và những con tàu vượt biển kia được xem như thuộc về phe hoạn quan. Vì vậy khi phe hoạn quan thất thế trong việc tranh giành quyền lực ở triều đình thì những con tàu đó cũng theo đó mà chấm dứt luôn chuyến hành trình, thậm chí các xưởng tàu còn bị phá huỷ, và những cuộc vượt biển như thế bị cấm luôn. Song song đó, ở bên trời Âu, Columbus cũng đang có ý vượt đại dương. Columbus khi đi xin tài trợ để có được tàu thuyền vượt biển, thì lần này đến lần khác bị các vua chúa ở châu Âu từ chối: từ vua Bồ-đào-nha, đến công tước Medina-Sedonia, rồi đến bá tước Medina-Celi, rồi vua và hoàng hậu Tây-ban-nha ban đầu cũng từ chối nốt, nhưng sau này thì hai vị đó lại đổi ý ưng thuận. Giả sử châu Âu thống nhất về chính trị và chỉ có một vua như Trung-quốc, thì có lẽ phải còn lâu nữa thì nhân loại mới tìm ra được châu Mĩ.
Việc phân tán chính trị ở châu Âu đã dẫn đến tình trạng các quốc gia châu Âu thường xuyên cạnh tranh nhau về mặt công nghệ và ý tưởng. Việc châu Âu chưa bao giờ thống nhất về mặt chính trị đã khiến cho châu Âu có những bước đi ban đầu vô cùng chậm chạp, nhưng bù lại họ có thể làm bất kì điều gì để phát triển mà không một kẻ độc tài chuyên quyền nào có thể chặn đứng, và cùng với việc cạnh tranh nhau gay gắt (nếu không sẽ bị đối phương thu phục), châu Âu đã có những bước tiến nhảy vọt sau này. Thời điểm mấu chốt cho sự nổi lên của châu Âu là vào cuối thế kỉ 15, lúc mà Columbus khám phá ra châu Mĩ, mang về châu Âu những thứ của cải lạ lẫm và mở ra cho người châu Âu một viễn cảnh mới, thế là các nước châu Âu từ đó đua nhau cạnh tranh và phát triển vượt bậc.
Theo Jared Diamond, thì sự phân tán chính trị ở châu Âu và thống nhất chính trị ở Trung-quốc có một nguyên nhân sâu xa nằm ở hoàn cảnh địa lí. Địa lí Trung-quốc có hai khu vực then chốt là hai con sông Dương-tử và Hoàng-hà, hai hệ thống sông này chảy qua những thung lũng giàu phù sa, nối liền vùng trung tâm Trung-quốc từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, mà hai khu vực này cũng không cách nhau bao nhiêu, thế là Trung-quốc có đầy đủ những điều kiện để hợp nhất lại. Ngược lại, “châu Âu có nhiều khu vực then chốt nhỏ rải rác nơi này nơi khác, không một khu vực nào trong số đó đủ lớn để chi phối các khu vực khác trong thời gian dài, và mỗi khu vực là trung tâm của những nhà nước thường là độc lập.”
Từ những nguyên do như trên, Jared Diamond đã rút ra một nguyên lí mà ông gọi là “Nguyên lí phân mảnh tối ưu” (the optimal fragmentation): “sự đổi mới diễn ra nhanh nhất ở xã hội nào có sự phân mảnh ở cấp độ trung gian tối ưu – xã hội nào thống nhất quá thì bất lợi, song xã hội nào phân mảnh quá thì cũng bất lợi nốt.” Đó là lí do tại sao Ấn-độ, vốn có mức phân mảnh địa lí còn hơn cả châu Âu nhưng không thể bằng châu âu trong việc canh tân về công nghệ. Từ góc độ lịch sử, Jared Diamond gợi ý cho ta về một nguyên lí về cơ cấu tổ chức nhóm: không nên tập trung quá, cũng không nên phân mảnh quá. Mô hình hoạt động của Microsoft ngày nay cũng theo sát với nguyên lí như trên: “Microsoft có rất nhiều đơn vị, mỗi đơn vị từ 5 đến 10 người, các đơn vị có thể tự do liên thông với nhau và không được quản lí ở cấp vĩ mô; các đơn vị được trao rất nhiều quyền tự do theo đuổi ý tưởng riêng của mình”, cơ cấu này theo Jared Diamond “thực chất là phân nhỏ thành nhiều đơn vị bán độc lập cạnh tranh với nhau”. Ở trường hợp lớn hơn, qui mô quốc gia, thì có hệ thống chính phủ liên bang của Hoa-kì cũng tương tự vậy: phân thành nhiều bang cạnh tranh nhau mà vẫn duy trì sự liên thông tự do với nhau, và mỗi bang lại có một bộ luật riêng, khiến cho Hoa-kì ngày nay như một châu Âu thứ nhì vậy.
Tìm hiểu lịch sử giúp ta có được cái nhìn kĩ càng hơn về thế giới ngày nay. Loài người xuất phát điểm như nhau, nhưng qua thời gian, sự di cư của loài người đến những vùng địa lí khác nhau đã dẫn đến sự phát triển khác nhau, không nơi nào giống nơi nào, hết thảy đều là vì môi trường sinh thái và điều kiện địa lí ở mỗi nơi khác nhau. Mà theo Jared Diamond, dường như “bàn tay của diễn trình lịch sử từ 8.000 năm TCN vẫn đang đè nặng lên chúng ta”, khi mà những nước đang nổi lên như là những nước phát triển nhất hiện nay thì từ xưa đã là “bộ phận của các trung tâm thống trị cũ dựa trên sản xuất lương thực, không thì cũng là những nước mà cư dân bản địa đã bị các dân tộc xuất phát từ các trung tâm đó di cư đến chiếm chỗ”. Có lẽ vì thế mà không phải khi không transistor được phát minh tại Mĩ, nhưng rút cuộc lại đến với người Nhật, chứ không đến với người Paraguay gần đó, dường như có một nguyên do sâu xa vô hình nào đó bắt nguồn từ diễn trình của lịch sử.
Yếu tố địa lí, môi trường là những yếu tố chủ đạo mà Jared Diamond dùng để hòng lí giải những khác biệt ở những vùng đất trên thế giới. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận còn có những biến số khác góp phần vào diễn trình của lịch sử: đó chính là các đặc thù văn hoá ở mỗi nơi, và một biến số bí ẩn hơn cả là sự “tác động của các cá nhân có tính cách khác thường”. Jared Diamond đã đưa ra những ví dụ minh hoạ xoay quanh hai vụ suýt chết của Adolf Hitler: một vụ nổi tiếng năm 1944, khi kế hoạch ám sát Hitler bằng bom hẹn giờ đã thất bại; và một vụ khác ít người biết hơn vào năm 1930 khi Hitler còn chưa giành được chính quyền ở Đức, lúc ấy ông ta bị tai nạn giao thông suýt chết, một chiết xe tải đâm vào xe ông ta, nhưng xe tải đó đã kịp phanh lại vừa đủ để không phải nghiền nát nhà độc tài tương lai kia. Giả như, Hitler đứng gần quả bom một chút, hay người tài xế xe tải kia không kịp đạp phanh thì có lẽ thời cuộc thế giới đã chuyển sang hướng khác. Tương tự vậy, số phận của những cá nhân khác thường trong lịch sử như Alexander Đại đế, Phật Thích Ca, Chúa Jesus, Mohammed, v.v. cũng đã góp phần không nhỏ định hình nên lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, theo Jared Diamond lập luận, thì những cá nhân đặc biệt đó cũng khó có thể tác động lên cái toàn cục được định hình bởi môi trường và địa lí, như miền Tây Á hội đủ điều kiện về mặt địa lí để phát triển thành nền văn minh sớm nhất, có chữ viết sớm nhất, và việc các vùng bị cô lập như Australia không vươn lên được do thiếu hụt quá nhiều điều kiện tự nhiên; tất thảy những điều đó khó có thể nào bị xoay chuyển chỉ vì một vài cá nhân đặc biệt nào đó. Dù vậy, theo Jared Diamond, thì biến số về các cá nhân đặc biệt này cũng là một vấn đề đáng lưu tâm, và cùng với biến số về các đặc thù văn hoá ở mỗi nơi, thì đây là những vấn đề mà cho đến nay người ta vẫn còn đang đi tìm lời giải đáp.
Duy Đoàn
Sài-gòn.
20110705
Chú thích:
[1] Uzgalis, William, “John Locke”, The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Winter 2010 Edition), Edward N. Zalta (ed.),  http://plato.stanford.edu/archives/win2010/entries/locke/.
[2] “Hellenistic Age.”Encyclopædia Britannica. Encyclopædia Britannica Ultimate Reference Suite.  Chicago: Encyclopædia Britannica, 2011.
[3] Ridley, Matt. Matt Ridley: When ideas have sex.  TED, 2010. <http://www.ted.com/talks/matt_ridley_when_ideas_have_sex.html>

Tài liệu chính:
Diamond, Jared. Súng, vi trùng và thép. Bản dịch của Trần Tiễn Cao Đăng. Hà-nội: Nhà xuất bản Tri thức, 2007.
Tài liệu tham khảo:
Encyclopædia Britannica. Encyclopædia Britannica Ultimate Reference Suite.  Chicago: Encyclopædia Britannica, 2011.
Bruno, Leonard C. “Steam engine.” The Gale Encyclopedia of Science. Ed. K. Lee Lerner & Brenda Wilmorth Lerner. 3rd edition. 6 vols. Detroit: Gale, 2004.
Lienhard, John H. How Invention Begins – Echoes of Old Voices in the Rise of New Machines. New York: Oxford, 2006.
Somerscales, E. F. C. “Steam and Internal Combustion Engine.” An Encyclopedia of the History of Technology. Ed. Ian McNeil. London: Routledge, 1990.
Link: http://chiecnon.wordpress.com/2011/07/25/nhung-van-de-lich-su-trong-cuon-sung-vi-trung-va-thep/