Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

BÀN THÊM VỀ VẤN ĐỀ VỐN CỐ ĐỊNH VÀ VỐN LƯU ĐỘNG

BÀN THÊM VỀ VẤN ĐỀ VỐN CỐ ĐỊNH VÀ VỐN LƯU ĐỘNG


5Jul2007
28313 views
Tôi xin tiếp tục bàn thêm về đề tài vốn cố định và vốn lưu động các bạn đang trao đổi. Thực ra mọi người đều hiểu khái niệm mình đang nói là cái gì. Vì vậy những tranh luận ở đây chỉ là về mặt từ ngữ thôi. Nếu xét trên tiêu chí "substance over form" thì không có gì phải tranh luận ở đây cả. Tuy nhiên, về mặt khoa học thì tôi nghĩ việc dùng từ ngữ chính xác cũng quan trọng. Vì vậy mạn phép xin tí đất trên saga để tiếp tục chủ đề này.

(1) Về giải thích của bạn kimchi tại sao lại gọi là vốn cố định và vốn lưu động:

Tôi không nói là bạn sai, vì những gì bạn nói đúng như trong phần lớn các giáo trình Tài chính hiện hành. Điều tôi muốn nói ở đây là tại sao chúng các giáo trình lại dùng thuật ngữ "vốn cố định" và "vốn lưu động" để chỉ những thứ đã có một tên gọi khác là "tài sản cố định" và "tài sản lưu động". Tất cả các phân tích trong bài viết của bạn đều đề cập tới "tài sản cố định" và "tài sản lưu động". Chỉ có mỗi câu mở đầu định nghĩa "Vốn cố định/lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định/lưu động". Như vậy, khi ta nói "vốn lưu động" hay "vốn cố định" tức là ta hiểu đó là "giá trị tài sản lưu động" hay "giá trị tài sản cố định" đúng không? Vậy tại sao chúng ta không sử dụng nhất quán khái niệm "tài sản cố định" và "tài sản lưu động" mà lại gọi nó là "vốn"?

Bạn cho rằng phải hiểu hai khái niệm "vốn cố định" và "vốn lưu động" thì mới có thể phân tích được các chỉ tiêu tài chính như "hiệu suất sử dụng vốn lưu động", "hiệu suất sử dụng vốn cố định", "hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh" của doanh nghiệp. Thực chất thì tôi lại thấy bạn đang đề cập tới "hiệu suất sử dụng tài sản lưu động, "hiệu suất sử dụng tài sảncố định" (nếu bạn dịch sang tiếng Anh thì bạn phải sử dụng thuật ngữ return on assets thì mọi người mới hiểu bạn đang nói gì). Còn chỉ tiêu thứ 3 thì lại liên quan tới nguồn vốn chủ sử hữu (equity) chứ không có liên quan gì đến vốn cố định hay lưu động cả.

(2) Về ý kiến của bạn lengocloi

Đồng ý với bạn rằng việc phân biệt tài sản cố định - tài sản lưu động, vốn ngắn hạn - vốn dài hạn là cần thiết. Tuy nhiên, tôi thấy lập luận của bạn không được nhất quán lắm.

Ở đoạn thứ 2 bạn có giải thích rằng "Kế toán không thể cầm 2 đồng trong tay, lúc nào cũng nghĩ, đồng này mua mắm, đồng này mua rượu !".Tuy nhiên, trong ví dụ sau đó thì rõ ràng là bạn đang phân biệt đồng nào mua mắm đồng nào mua rượu rồi đó.

Nếu tôi có 100 đồng, tôi đi vay ngắn hạn 20 đồng để có 120 đồng. Tôi mua tài sản cố định 80 đồng, tài sản lưu động 40 đồng. Vậy theo bạn thì tôi đang lấy vốn ngắn hạn để tài trợ tài sản dài hạn hay, ngược lại, tôi đang dùng 20 đồng vốn dài hạn để tài trợ tài sản ngắn hạn?

Một điểm nữa mà tôi cho rằng ý kiến của bạn chưa hợp lý (mặc dù đúng theo sách) là bạn cho rằng doanh nghiệp dùng vốn ngắn hạn để tài trợ tài sản dài hạn thì sẽ không có nguồn trả nợ (vì khấu hao không kịp). Tôi không nghĩ việc khấu hao chậm hay nhanh có ảnh hưởng tới khả năng trả nợ. Khả năng trả nợ đến hạn phụ thuộc vào luồng tiền của doanh nghiệp. Bản thân việc khấu hao không tạo ra tiền (cash). Vì vậy bất luận bạn khấu hao nhanh hay chậm nhưng doanh nghiệp của bạn không tạo ra được đủ tiền mặt để thanh toán nợ thì bạn cũng vẫn mất khả năng thanh toán.

Một lần nữa xin nhắc lại ý kiến của tôi chỉ là để trao đổi nhằm làm sáng tỏ hơn vấn đề. Khoa học không có gì tuyệt đối đúng hay sai cả (kể cả câu này).

Chào thân ái và quyết thắng!
Hãy đăng nhập để bình luận
  • Lê Kim Thanh
    7/30/2009 2:24:32 PM
    Mình hiểu LNL, ý bạn ấy là như thế này: Khi khấu hao chậm, bạn lời 1đ, nhưng dòng tiền thật sự là 101đ. Khi bạn khấu hao gấp 2, do áp lực fai có LN sổ sách nên bạn fai tăng Dthu nên dòng tiền cũng tăng gấp 2, và bạn sẽ có 200đ, chưa kể 1đ LN nữa (tổng cộng dòng tiền là 201đ).
    Minh cũng hiểu LongPT, là DN chỉ khấu hao nhanh được khi có lợi thế về SP thôi như ít cạnh tranh, nhượng quyền...
    Nếu không có thì fải tạo ra. Một DNTN thuê đất nhà dân 5 năm, XD theo giá lạm fát. Làm sao lấy lại vốn mà vẫn cạnh tranh được với DNQD đã khấu hao hết cách đây 10 năm & trả tiền thuê đất như không trả? Chỉ có cách khấu hao nhanh, tăng dịch vụ & liều thôi, nếu không thì làm gì có SP mới cho chúng ta? Chẳng phải CPI VN rất cao đó thôi vì mạnh ai nấy tăng giá? Đây có lẽ là cái lí của LNL.
    Vậy các bạn đều có lý, nhưng 1 bên (LNL) có tư tưởng tư bản nhiều hơn.
  • le tin
    12/29/2008 10:58:21 AM
    Chào bạn Lengocloi,

    Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của gaubo và longplt. Khấu hao chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận chứ không làm tăng hay giảm luồng tiền. Và tất nhiên "sách viết không phải lúc nào cũng chính xác", bởi vì sách cũng chính do con người viết ra.

    Thân mến.
  • Lê Ngọc Hùng
    5/9/2008 2:29:22 PM
    @puki: công thức của em là sai. Công thức đúng của nó là
    vốn lưu động RÒNG = ...
  • Ngô Ngọc Khánh
    4/9/2008 2:08:44 PM
    "Hãy thử nghiệm với ví dụ sau đây: Bạn lập một kế hoạch tài chính, trong đó CP vật liệu, Nhân công là 200; khấu hao là 100. Giá thành sản phẩm là 300. Bạn muốn lãi thì phải bán 301 (hoặc lớn hơn). Bây giờ khấu hao 200, giá thành đã là 400 rồi, Bạn muốn bán có lãi (và thu tiền) thì Bạn phải bán 401 (hoặc lớn hơn). Do vậy, khấu hao đã là một yếu tố tạo tiền rồi đó."
    Tôi cho rằng cần phải xem lại ví dụ này. Nó dường như không xuất phát từ thực tiễn mà chỉ là một ví dụ mang tính chất tưởng tượng của lengocloi. Thứ nhất, giá bán sản phẩm là do 2 yếu tố sau quyết định: Chi phí sản xuất và thị trường. Khấu hao đồng ý là một bộ phận của chi phí cấu thành giá vốn hàng bán nhưng với cách nghĩ là do áp dụng phương án khấu hao nhanh mà bắt người mua chịu giá bán cao hơn là hoàn toàn phi kinh doanh. Bây giờ, tôi giả sử một công ty khác cũng sản xuất sản phẩm như công ty bạn ví dụ, cũng có chi phí vật liệu và nhân công 200 nhưng phương pháp khấu hao của họ chỉ có chi phí khấu hao là 100 thì giá bán của họ sẽ là 301. Vậy với 2 sản phẩm như nhau nhưng có giá bán chênh lệch nhau quá xa như vậy thì liệu công ty áp dụng phương pháp khấu hao nhanh có bán được sản phẩm không?
  • Huy
    11/8/2007 10:29:07 AM
    Trích dẫn từ ví dụ của bạn gaubo:
    Giả sử bạn mới thành lập một doanh nghiệp và bạn phải đi vay 100 đồng để mua sắm tài sản cố định. Để đơn giản ta giả định doanh nghiệp của bạn thuộc dạng được ưu đãi đầu tư nên không phải nộp thuế TNDN.

    Nếu như khoản vay của bạn có thời hạn 5 năm, mỗi năm bạn phải trả 20 đồng (bỏ qua tiền lãi). Giả sử năm thứ nhất công ty bạn kinh doanh sau khi trừ các chi phí thì luồng tiền còn lại là 10 đồng (trước khi trả lãi vay). Trong khi đó tiền nợ vay phải trả là 20 đồng.
    Theo tôi, khi bạn bảo "sau khi trừ các chi phí " thì thật ra bao hàm cả khấu hao. Hay chính xác hơn, theo ví dụ trên của bạn: (Giả sử khấu hao 10 năm -> 10đ/năm), thì luồng tiền của doanh nghiệp: 10đ (khấu hao để lại) + 10 đồng lợi nhuận = 20đ.
    Chính vì thế mà khi lập báo cáo theo phương pháp gián tiếp, chúng ta phải cộng thêm khấu hao ở luồng tiền đi vào là thế.
    Còn nếu bạn nói chi phí mà chưa có khấu hao thì đó chỉ là thực chi tiền, chưa phải là chi phí hoạt động kinh doanh. Nói cách khác là chưa tính đủ chi phí.
    Thân ái.
  • Bùi Vương Bình
    11/2/2007 4:56:59 PM
    Tôi xin góp thêm ý kiến với các bạn
    Thứ nhất, việc trao đổi nội dung này là cần thiết.
    Thứ hai về nội dung mình xin có một số ý kiến thêm:
    Vốn cố định và vốn lưu động: Khi nói đến vốn tức là bạn đang nói đến việc nguồn hình thành và tính chất sở hữu cũng như tỷ lệ lợi tức yêu cầu và chi phí cơ hội.
    Còn khi bạn định nói về vốn cố định và vốn lưu động: Tức là các bạn hàm ý nói đến hiệu quả sử dụng cảu vốn đó. Thông qua hình thái hiện vật là tài sản để đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của bạn. Còn ngược lại thì bạn có thể đầu tư vào tài sản khác.
    Do vậy mình suy nghĩ là câu chuyên Vốn cố định hay lưu động nên nhấn mạnh để làm gì thì hợp lý hơn.
    Trân trọng

  • Nguyễn Kim Ngân
    10/17/2007 6:32:54 PM
    Em thắc mắc: trong phần tra cứu thuật ngữ có Vốn lưu động = TSLĐ - (trừ) Nợ ngắn hạn. Vậy thì vốn lưu động làm sao là tài sản lưu động được.
  • Bùi hữu Ngọc
    8/18/2007 9:53:45 PM
    "Trong vấn đề Bạn Gaubo có nói, thì thật ra, việc phân tích của tôi là thay thế khái niệm TSCĐ và TSLĐ bằng tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn. Vì thuật ngữ Tài sản dài hạn phù hợp hơn vì các khoản đầu tư dài hạn đâu chỉ bao gồm TSCĐ. Tương tự như thế đối với Tài sản ngắn hạn. Từ lý luận đó, Tôi đã thoát ra được khỏi khái niệm Vốn Cố định và Vốn Lưu động. Sau đó, Tôi mới bàn về vấn đề nguồn vốn để hình thành Tài sản (nói chung). Không nói đến vốn tự có, hãy nói đến vốn vay hay vốn huy động khác xem. Nếu vay ngắn hạn mà mua sắm hay đầu tư vào tài sản dài hạn thì liệu có "nguy cơ lắm không" ? Ngoài ra, Bạn Gaubo quên nữa là khấu hao chính là lấy lại tiền. Khấu hao là một dạng chi phí phi tiền tệ và làm tăng luồng tiền vào của doanh nghiệp. Nếu khấu hao không ảnh hưởng đến tiền thì làm gì có khái niệm "khấu hao nhanh để lấy lại vốn cho nhanh"!"
    Theo tôi, trong nền kinh tế thị trường giá cả hàng hoá do thị trường quyết định chứ không phải hoàn toàn do giá thành quyết định nên khấu hao nhanh hay không không ảnh hưởng đến giá bán (một số trường hợp giảm giá thành cho phép giảm giá bán). Như thế khấu hao không làm tăng nguồn tiền vào nhưng trong điều kiện bình thường có thể làm giảm nguồn tiền ra và làm tăng tiền. Khi khấu hao nhanh mà bán lỗ thì chưa hẳn làm tăng tiền! Khi nói khấu hao nhanh giúp thu hồi vốn nhanh chỉ khi giá bán đủ bù đắp chi phí và có lãi, còn ngược lại thì khấu hao nhanh không có lợi cho DN.
    Do đó, giám đốc tài chính phải biết rõ trường hợp nào nên dùng phương pháp khấu hao nhanh và trường hợp nào không nên khấu hao nhanh.
    Ý kiến nhỏ hy vọng không làm các bạn thất vọng.
  • Bùi hữu Ngọc
    8/18/2007 9:32:45 PM

    Theo tôi, tài sản có 2 mặt: giá trị và hiện vật.
    Giá trị được đánh giá theo 2 loại: giá trị còn lại và nguyên giá. Ví dụ trên bảng CĐKT, TSCĐ được phản ảnh cả 3 chỉ tiêu: nguyên giá, khấu hao luỹ kế và giá trị còn lại.
    Hiện vật (hữu hình và vô hình) cho biết loại tài sản gì? tính chất ra sao? Qui luât vận động thế nào?v.v... từ đó người quản lý sẽ có cách quản lý chúng, sử dụng chúng đạt hiệu quả cao nhất.
    Vốn chỉ thể hiện 1 mặt duy nhất là giá trị (biểu hiện bằng tiền).
    Như thế vốn không phải là tài sản nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Do Bảng CĐKT chỉ sử dụng 1 thước đo duy nhất là giá trị nên phần tài sản chỉ thể hiện mặt giá trị của tài sản nhưng cho chúng ta biết giá trị của loại tài sản nào. Tổng tài sản trên bảng CĐKT cho biết tổng vốn thuộc quyền quản lý của DN, số vốn đó được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
    Trong thực tế chúng ta thường nhầm lẫn vốn và nguồn vốn và cho rằng chúng là 1. Chính vì vậy một số người cắc cớ hỏi rằng vốn vay và nợ vay từ nào đúng! Nếu là vốn thì phải nằm trong mục tài sản còn là nợ thì phải ở phần nguồn vốn trong bảng CĐKT.
    Như thế khái niệm "vốn" của ta khá phức tạp. Nếu tách riêng lẽ thì khó tìm được qui luật chung. Vốn cố định, vốn lưu động, vốn luân chuyển, vốn chủ sở hữu...!!!
    Vài gợi ý bổ sung, hy vọng các bạn sẽ cho thêm ý kiến.



  • nguyenbinhphuong
    8/9/2007 11:45:11 PM
    Em đang là sinh viên.Hiện giờ em cũng rất mơ hồ về khái niệm vốn lưu động và vốn cố định.Đọc những tranh luận của các anh chị,em đồng ý với những lập luận của Gaubo và Longqlt.Tuy nhiên theo bài viết của Gaubo mới chỉ đưa ra các câu hỏi mở để mọi người cùng thảo luận,vậy Gaubo có thể đưa ra  những hiểu biết của bản thân vào 2 khái niệm này một cách rõ ràng được không?
    Những điều đã trao đổi của Lengocloi  khá mâu thuẫn!
    Cảm ơn các anh chị đã đọc!
  • Phương Lan
    8/1/2007 11:00:11 PM
    Nếu Bạn quan tâm đến Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ, Bạn sẽ hiểu được tại sao khấu hao nhanh làm tăng luồng tiền vào của Doanh nghiệp. Có rất nhiều người không cảm nhận được điều này trong kế hoạch khấu hao (một trong những khía cạnh của kế hoạch tài chính) nên thường ngộ nhận Chi Phí Khấu Hao chỉ đơn thuần làm giảm lợi nhuận chứ không hề tác động đến luồng tiền vào.

    Hãy thử nghiệm với ví dụ sau đây : Bạn lập một kế hoạch tài chính, trong đó CP vật liệu, Nhân công là 200; khấu hao là 100. Giá thành sản phẩm là 300. Bạn muuốn lãi thì phải bán 301 (hoặc lớn hơn). Bây giờ khấu hao 200, giá thành đã là 400 rồi, Bạn muốn bán có lãi (và thu tiền) thì Bạn phải bán 401 (hoặc lớn hơn). Do vậy, khấu hao đã là một yếu tố tạo tiền rồi đó.

    Nói về bản chất thì chắc chắn sẽ rất dài dòng. Bạn tìm tài liệu hướng dẫn cách lập "Báo cáo Lưu Chuyển tiền tệ" theo Phương pháp Gián tiếp, Bạn sẽ thấy vấn đề Tôi đưa ra là đúng.
    Ý kiến của bạn lengocloi khá mâu thuẫn. Điểm thứ nhất là trong ví dụ của bạn, khi tăng cả khấu hao và doanh thu, thì lợi nhuận không hề giảm sút. Điểm thứ hai là khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp, để tính được lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, bạn cần cộng ngược lợi nhuận sau thuế với khấu hao để loại trừ ảnh hưởng của khấu hao.
  • Trần Đức Nam
    8/1/2007 4:42:03 AM
    Tks Long,

    Thêm cả ý kiến của Long nữa mà bạn lengocloi vẫn không đồng ý thì tôi cũng xin bó tay không giải thích được nữa.

    Xin có thêm ý kiến về ví dụ bạn lengocloi đưa ra để chứng minh quan điểm khấu hao có thể tạo ra tiền.

    Hãy thử nghiệm với ví dụ sau đây : Bạn lập một kế hoạch tài chính, trong đó CP vật liệu, Nhân công là 200; khấu hao là 100. Giá thành sản phẩm là 300. Bạn muuốn lãi thì phải bán 301 (hoặc lớn hơn). Bây giờ khấu hao 200, giá thành đã là 400 rồi, Bạn muốn bán có lãi (và thu tiền) thì Bạn phải bán 401 (hoặc lớn hơn). Do vậy, khấu hao đã là một yếu tố tạo tiền rồi đó.
    Theo tôi hiểu thì ý của bạn ở đây là nếu khấu hao 100 thì bán với giá 301, còn nếu khấu hao 200 thì bạn sẽ bán với giá 401, như vậy việc tăng khấu hao 100 đồng sẽ có tác dụng tăng luồng tiền lên 100 đồng?

    Trừ khi bạn là EVN  (Tổng công ty Điện lực Việt Nam), còn thì nói chung giá cả do thị trường chứ không phải do doanh nghiệp quyết định. Thị trường không cần quan tâm bạn khấu hao với mức bao nhiêu. Nếu thị trường chỉ chấp nhận mức giá hợp lý là 301 đồng thì dù bạn có khấu hao 200 hay 400 đi nữa thì bạn cũng chỉ có thể bán được sản phẩm với giá 301 đồng mà thôi. Có nghĩa là bạn không thể tăng luồng tiền của mình lên được đâu.
    Chào thân ái!
  • Long Phan
    7/31/2007 12:38:37 PM
    Góp ý kiến thêm một chút với Gaubo và lengocloi.

    Tôi đọc profile thấy gaubo có nghề nghiệp là Kiểm toán viên. Mà KTV thì chắc là một nghề quen thuộc với Cashflow Statement nhất.

    Tôi lấy luôn ví dụ của LNL và một phần của gaubo để minh hoạ việc khấu hao không tạo ra tiền như thế nào (non-cash item).

    Bạn lập một kế hoạch tài chính, trong đó CP vật liệu, Nhân công là 200; khấu hao là 100. Giá thành sản phẩm là 300. Bạn muuốn lãi thì phải bán 301 (hoặc lớn hơn). 

    Giả sử LNL bán sản phẩm của mình với giá 310. Lúc này lợi nhuận kế toán là 10.

    Theo ý tưởng ví dụ của gaubo, giả sử LNL đi vay và sẽ phải trả lãi vay 150.

    Ta xét xem LNL có bao nhiêu tiền để trả nợ tiền lãi vay cho ngân hàng nhé. LNL thu được 310, chi tiền ra 200 (chi phí nhân công trả bằng tiền). LNL còn lại 110. Vậy LNL thiếu mất 40 để trả lãi vay. Tôi, người đóng vai trò một cán bộ ngân hàng, đến đòi nợ lãi vay. LNL nói rằng, chờ tôi điều chỉnh lại tỷ lệ khấu hao để có tiền trả anh nhé???

    Trong ví dụ của LNL có đề cập đến việc khi tăng chi phí khấu hao, doanh nghiệp tăng giá bán của sp để đảm bảo có lãi. Quan điểm này có thể sai lầm. Trong kinh doanh không phải cứ tăng giá bán thì mới thu được lợi nhuận. Sản phẩm đó có thể bán dưới giá thành nhưng vẫn có thể làm lợi cho doanh nghiệp do nó tạo ra phần đóng góp (contribution) để cover chi phí cố định. Mà khấu hao là một dạng chi phí cố định. Do vậy, khấu hao không hẳn là yếu tố quyết định khi xác định giá bán cũng như có tiếp tục kinh doanh sản phẩm đó nữa không.

    Nếu như khoản vay của bạn có thời hạn 5 năm, mỗi năm bạn phải trả 20 đồng (bỏ qua tiền lãi). Giả sử năm thứ nhất công ty bạn kinh doanh sau khi trừ các chi phí thì luồng tiền còn lại là 10 đồng (trước khi trả lãi vay). Trong khi đó tiền nợ vay phải trả là 20 đồng.
    Từ Chi phí ở đây nếu thay bằng chi phí bằng tiền (cash expense) thì có thể rõ ràng hơn.
  • Le Ngoc Loi
    7/31/2007 11:13:39 AM
    Phúc đáp ý kiến Bạn Gaubo.
    Nếu Bạn quan tâm đến Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ, Bạn sẽ hiểu được tại sao khấu hao nhanh làm tăng luồng tiền vào của Doanh nghiệp. Có rất nhiều người không cảm nhận được điều này trong kế hoạch khấu hao (một trong những khía cạnh của kế hoạch tài chính) nên thường ngộ nhận Chi Phí Khấu Hao chỉ đơn thuần làm giảm lợi nhuận chứ không hề tác động đến luồng tiền vào.

    Hãy thử nghiệm với ví dụ sau đây : Bạn lập một kế hoạch tài chính, trong đó CP vật liệu, Nhân công là 200; khấu hao là 100. Giá thành sản phẩm là 300. Bạn muuốn lãi thì phải bán 301 (hoặc lớn hơn). Bây giờ khấu hao 200, giá thành đã là 400 rồi, Bạn muốn bán có lãi (và thu tiền) thì Bạn phải bán 401 (hoặc lớn hơn). Do vậy, khấu hao đã là một yếu tố tạo tiền rồi đó.

    Nói về bản chất thì chắc chắn sẽ rất dài dòng. Bạn tìm tài liệu hướng dẫn cách lập "Báo cáo Lưu Chuyển tiền tệ" theo Phương pháp Gián tiếp, Bạn sẽ thấy vấn đề Tôi đưa ra là đúng. Hoặc Bạn có thể tham khảo ý kiến của các Chuyên gia Tài chính, Tôi tin rằng không ai có quan điểm khác Tôi đâu.
    Thân mến
    LNL
  • Trần Đức Nam
    7/28/2007 9:47:36 AM
    Chào bạn lengocloi,

    Tôi xin được trao đổi tiếp với bạn về quan điểm sau:

    Khấu hao là một dạng chi phí phi tiền tệ và làm tăng luồng tiền vào của doanh nghiệp. Nếu khấu hao không ảnh hưởng đến tiền thì làm gì có khái niệm "khấu hao nhanh để lấy lại vốn cho nhanh"!

    Trước hết tôi khẳng định lại khấu hao không có tác động gì đến luồng tiền của doanh nghiệp cả, ngoại trừ lợi ích về thuế (nếu có). Tôi nói nếu có là vì không phải lúc nào khấu hao nhanh cũng tiết kiệm được thuế. Giả sử doanh nghiệp của bạn chịu thuế suất thuế TNDN là 28% thì 100 đồng khấu hao tăng thêm bạn sẽ tiết kiệm được 28 đồng. Tuy nhiên, tôi ngờ rằng cái lợi ích của khấu hao tăng thêm mà bạn đề cập đến lại không liên quan tới thuế.

    Bây giờ tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy quan điểm "khấu hao nhanh để tăng luồng tiền vào của doanh nghiệp" không ổn ở chỗ nào.

    Giả sử bạn mới thành lập một doanh nghiệp và bạn phải đi vay 100 đồng để mua sắm tài sản cố định. Để đơn giản ta giả định doanh nghiệp của bạn thuộc dạng được ưu đãi đầu tư nên không phải nộp thuế TNDN.

    Nếu như khoản vay của bạn có thời hạn 5 năm, mỗi năm bạn phải trả 20 đồng (bỏ qua tiền lãi). Giả sử năm thứ nhất công ty bạn kinh doanh sau khi trừ các chi phí thì luồng tiền còn lại là 10 đồng (trước khi trả lãi vay). Trong khi đó tiền nợ vay phải trả là 20 đồng.

    Câu hỏi của tôi là bạn điều chỉnh khấu hao tài sản cố định kiểu gì để có thêm 10 đồng nữa để trả nợ?

    Xin cảm ơn!
  • Avatar
    Le Ngoc Loi
    7/27/2007 4:17:40 PM
    Trong vấn đề Bạn Gaubo có nói, thì thật ra, việc phân tích của Tôi là thay thế khái niệm TSCĐ và TSLĐ bằng tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn. Vì thuật ngữ Tài sản dài hạn phù hợp hơn vì các khoản đầu tư dài hạn đâu chỉ bao gồm TSCĐ. Tương tự như thế đối với Tài sản ngắn hạn. Từ lý luận đó, Tôi đã thoát ra được khỏi khái niệm Vốn Cố định và Vốn Lưu động. Sau đó, Tôi mới bàn về vấn đề nguồn vốn để hình thành Tài sản (nói chung). Không nói đến vốn tự có, hãy nói đến vốn vay hay vốn huy động khác xem. Nếu vay ngắn hạn mà mua sắm hay đầu tư vào tài sản dài hạn thì liệu có "nguy cơ lắm không" ? Ngoài ra, Bạn Gaubo quên nữa là khấu hao chính là lấy lại tiền. Khấu hao là một dạng chi phí phi tiền tệ và làm tăng luồng tiền vào của doanh nghiệp. Nếu khấu hao không ảnh hưởng đến tiền thì làm gì có khái niệm "khấu hao nhanh để lấy lại vốn cho nhanh"!

    Thân mến.

VỐN CỐ ĐỊNH VÀ VỐN LƯU ĐỘNG

VỐN CỐ ĐỊNH VÀ VỐN LƯU ĐỘNG


8Jun2007
186345 views
  Vốn cố định:

Định nghĩa: Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp.

1.    Khái niệm tài sản cố định:

 Tài sản cố định là những tư liệu lao động đáp ứng hai tiêu chuẩn sau:

-         Thời gian sử dụng: Từ một năm trở lên

-         Tiêu chuẩn về giá trị: Phải có giá trị tối thiểu ở một mức nhất định do Nhà nước quy định phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ (theo chế độ kế toán ban hành theo quyết định 15/2006/BTC thì TSCĐ có giá từ 10.000.000 trở lên)

2.    Phân loại TSCĐ:

a)    Cách phân loại thông dụng nhất là theo hình thái biểu hiện, TSCĐ được chia thành 2 loại: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.

       *    TSCĐ hữu hình: Là những tài sản có hình thái, vật chất, được chia thành các nhóm sau:

-         Nhà cửa, vật kiến trúc
-         Máy móc, thiết bị
-         Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn
-         Thiết bị, dụng cụ quản lý.
-         Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm.
-         Các TSCĐ hữu hình khác.

*    TSCĐ Vô hình:

  Là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện những lượng giá trị lớn mà doanh nghiệp đã đầu tư, liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh. Bao gồm các loại sau:

-   Quyền sử dụng đất
-   Chi phí thành lập doanh nghiệp
-   Chi phí về bằng phát minh sáng chế
-   Chi phí nghiên cứu phát triển
-   Chi phí về lợi thế thơng mại
-   Quyền đặc nhượng
-   Nhãn hiệu th ươ ng mại…..

b)    Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng, có các loại:

-   TSCĐ đang dùng
-   TSCĐ chưa dùng
-   TSCĐ không cần dùng và chờ thanh lý

c)    Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế
d)    Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng

 ---------------------------------

Vốn lưu động

1.    Nội dung của vốn lưu động:

Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp.

Tài sản lưu động của doanh nghiệp thường gồm 2 bộ phận: Tài sản lưu động trong sản xuất và tài sản lưu động trong lưu thông.

Tài sản lưu động trong sản xuất là những vật tư dự trữ như nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu … và sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất.

Tài sản lưu động trong lưu thông bao gồm: Sản phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, các khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước …

2.    Phân loại vốn lưu động.

Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, thông thường vốn lưu động được phân loại theo các tiêu thức khác nhau:

a)    Phân loại theo hình thái biểu hiện: Theo tiêu thức này, vốn lưu động được chia thành:

- Vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán

+ Vốn bằng tiền: gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, kể cả kim loại quý (Vàng, bạc, đá quý …)

+ Vốn trong thanh toán: Các khoản nợ phải thu của khách hàng, các khoản tạm ứng, các khoản phải thu khác..

-    Vốn vật tư hàng hóa (hay còn gọi là hàng tồn kho) bao gồm nguyên, nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động, sản phẩm dở dang và thành phẩm.

-    Vốn về chi phí trả trước: Là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh có liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá thành sản phẩm của nhiều chu kỳ kinh doanh như: chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, chi phí thuê tài sản, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng, lắp đặt các công trình tạm thời, chi phí về ván khuôn, giàn giáo, phải lắp dùng trong xây dựng cơ bản …

b)    Phân loại vốn theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này vốn lưu động được chia thành 3 loại:

-     Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm giá trị các khoản nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động nhỏ.

-     Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Bao gồm giá trị sản phẩm dở dang và vốn về chi phí trả trước.

-      Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Bao gồm giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn  (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn …) các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm ứng …)

Hãy đăng nhập để bình luận

  • tran quang
    7/8/2007 1:42:13 AM
    Tôi có ý kiến trao đổi về các loại vốn như sau:
    Thứ nhất, vốn là gì? Là biểu hiện về mặt giá trị của các loại tài sản trong DN. Vậy về mặt giá trị là gì? Nếu cứ hiểu giá trị là tiền thì cũng không hẳn vì trong vốn có vốn bằng tiền. Tuy nhiên, để tiền là vốn phải có những tiêu chuẩn như; phải đến một lượng nhất định, phải luôn vận động sinh lời...
    Thứ hai, vốn kinh doanh? Là biểu hiện toàn bộ giá trị các tài sản nhằm đem lại lợi ích cho DN. Vốn kinh doanh, theo đặc điểm chu chuyển (vận động) chia thành 2 loại: Loại thứ nhất là Vốn lưu động (VLĐ) và thứ hai là Vốn cố định (****).
    Giữa 2 loại vốn này người ta phải phân biệt ra để quản lý. Do đặc điểm chu chuyển khác nhau. **** có đặc điểm chu chuyển lâu dài do thời gian sử dụng của TSCĐ dài, do vậy quá trình thu hồi vốn lâu dài, kết thúc vòng tuần hoàn sau khi TSCĐ hết thời gian sử dụng (hoặc hết khấu hao). Do vậy trong quá trình quản lý cần phải quản lý cả trên 2 mặt hiện vật là các TSCĐ (chính vì thế mới có cái để mà tranh cãi là có cần đến **** không) và về mặt giá trị (quỹ khấu hao- những phần đã thu hồi) nhằm đảm bảo thu hồi đầy đủ ****. Nếu chỉ để riêng là TSCĐ vậy thì có cần quản lý quỹ khấu hao hay không? Đó chính là cái mà người quản lý tài chính khác kế toán.
    VLĐ có đặc điểm tuần hoàn liên tục, kết thúc chu kỳ tuần hoàn (T-H..SX...H'-T'; DN SX) sau mỗi chu kỳ SX và tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trình chu chuyển, VLĐ luôn thay đổi hình thái biểu hiện từ vốn bằng tiền ban đầu, chuyển sang vốn vật tư, hh, sang sp dở dang, bán thành phẩm, sang vốn thành phẩm, kết thúc vòng tuần hoàn quay trở về hình thái ban đầu là vốn bằng tiền. Trong VLĐ có vốn bằng tiền, các khoản phải thu, vốn hàng tồn kho.
    Nói đến vốn là nói đến sự vận động của tài sản tồn tại ở nhiều hình thái khác nhau (máy móc, vật tư, hàng tồn kho, tiền...) Tài chính nghiên cứu sự vận động của dòng tiền ra vào. Kế toán ghi nhận phản ánh các TS, nguồn hình thành TS ở những thời kỳ một cách chính xác và trung thực. Người quản lý tài chính quan tâm đến sự vận động của vốn như thế nào? Đầu tư vào đâu, bao nhiêu, dùng nguồn nào, phân chia lợi nhuận ra sao... Đứng trên góc độ quản trị tài chính doanh nghiệp thì cần phải phân biệt ra giữa vốn và tài sản đơn giản là để quản lý.
  • Sinh Phúc
    7/5/2007 8:33:08 AM
    Tôi muốn thêm một số chi tiết về phần tiêu chuẩn của tài sản cố định!! Theo chuẩn mực kế toán VN thì các tài sản được ghi nhận là TSCĐ thì phải có 4 tiêu chuẩn, bao gồm 2 tiêu chuẩn đã được bạn Kimchi nêu ở trên và 2 tiêu chí nữa đó là:
    • Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó;
    • Nguyên giá của tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy. Nguyên giá của TSCĐ là giá trị ban đầu của TSCĐ đó. Cụ thể phải được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã đầu tư để có được tài sản đó.
    Cảm ơn!!
  • Le Ngoc Loi
    7/4/2007 12:04:33 PM
    Tôi xin đưa ra ý kiến như thế này. Theo thuật ngữ tài chính, "vốn lưu động" chính là khoản tiền ứng ra để mua sắm các "tài sản lưu động", "Vốn cố định" là khoản tiền ứng ra cho những "Tài sản cố định" hiện hành của doanh nghiệp. Vốn ở đây thể hiện phần nguồn hình thành nên tài sản nói chung của doanh nghiệp.
    Đối với ý kiến của Bạn KimChi, thì kế toán không bàn đến Vốn cố định hay Vốn lưu động. Trước đây, kế toán vẫn giữ quan điểm này, nhưng sau này thì không nói "Vốn bao gồm vốn lưu động và vốn cố định nữa", vì đã là vốn thì đừng phân tích vốn đó dùng để mua cái gì ! Một chuyên gia của Bộ Tài chính khi giải thích nguyên nhân mà Bộ Tài chính bỏ các mục "Vốn cố định và Vốn lưu động" trong bảng CĐKT là : "Kế toán không thể cầm 2 đồng trong tay, lúc nào cũng nghĩ, đồng này mua mắm, đồng này mua rượu !" do đó khái niệm vốn Cố định và Vốn lưu động đã bị bỏ đi trong các Báo cáo Kế toán.
    Đối với tài chính, vấn đề phân tích chắc hẵn cũng đi theo chiều hướng này. Khi phân tích tài chính của doanh nghiệp, chúng ta phải xem xét rằng : khoản vốn dài hạn mà doanh nghiệp có hoặc vay dài hạn dùng để tài trợ cho tài sản dài hạn hay dùng tài trợ mua sắm tài sản ngắn hạn, hoặc là : vốn ngắn hạn (bao gồm vốn tự có và vốn vay ngắn hạn) tài trợ bao nhiêu cho tài sản ngắn hạn. Bạn GauBo chỉ cần phân biệt là : những tài sản ngắn hạn hiện hành của doanh nghiệp (phải thu ngắn hạn, công cụ dụng cụ, ...) được hình thành từ vốn ngắn hạn hay không ! tương tự như thế đối với tài sản dài hạn. Tại sao phải phân biệt ? Tôi cho bạn một ví dụ thế này : DN-A có vốn tự có là 100, nhu cầu mua sắm nguyên vật liệu, hàng hóa và dự trữ thanh toán hết 40 rồi, còn lại 60 dùng để mua sắm TS cố định như máy móc, thiết bị (tài sản dài hạn - vì thời gian thu hồi > 1 năm). Nhưng vì giá trị máy móc mua đến 80, vậy thiếu 20 lấy ở đâu ra? Đi vay 20, được, nhưng vay ngắn hạn (1 năm). Đến đây, rõ ràng vốn dài hạn chỉ có 60 nhưng Tài sản dài hạn đến 80, tức là Bạn dùng Vốn dài ngắn hạn tài trợ cho Tài sản dài hạn, vậy đến hạn trả nợ 20 (vốn ngắn hạn) bạn lấy đâu ra tiền để trả ? vì bạn khấu hao tài sản dài hạn còn lâu mới kịp !
    Vì vậy, việc phân biệt TS Dài hạn - Vốn dài hạn và TS ngắn hạn - Vốn ngắn hạn rất cần trong phân tích và quản trị tài chính .
    Thân mến
    LNL
  • Thu Huyền
    6/11/2007 4:33:54 PM
    Tôi thấy "Vốn" và "Tài sản" thực chất là một. Ngày trước trong các bảng CĐKT người ta thường sử dụng Vốn và Nguồn vốn (bây giờ thì thường dùng Tài sản và Nguồn vốn). Như vậy thực chất "Vốn" và "Tài sản" là một. Vốn là biểu hiện bằng tiền hình thành nên tài sản của DN, còn "Nguồn vốn" là nguồn hình thành nên vốn đó, vốn đó được xuất phát từ nguồn nào. Ngày nay, có lẽ để dễ phân biệt và tránh nhầm lẫn, người ta sử dụng Tài sản và Nguồn vốn thay vì dùng Vốn và Nguồn vốn
  • Phan Xuân Phong
    6/11/2007 11:50:55 AM
    Đứng ở khía cạnh Kế toán- nhằm mục đích để kiểm tra-kiểm soát & quản lý doanh nghiệp (có tuân thủ đúng chế độ, có vi phạm pháp luật về về khía cạnh tài chánh không,...), nên khi đề cập đến Bảng cân đối kế toán người ta phân ra làm 2 phần: Nguồn vốn (NV) vs Tài sản (TS). Khi nói đến NV, nhà quảnlý  muốn biết TIỀN doanhnghiệp có là từ đâu: tự bỏ ra (vốn ĐKKD, lợi nhuận tích lũy để lại chuyển sang vốn kdoanh,tăng vốn góp cổ đông,....), vốn huy động-tài trợ (vốn vay mượn) và vốn chiếm dụng (tạm thời) từ mua bán thương mại. Khi đề cập đến phần TS, nhà quản lý quan tâm đến NV (DN có ở trên) được anh sử dụng làm gì? mua sắm tài sản cố định (tham khảo khái niệm TSCĐ - thông thường ở những công ty SẢN XUẤT- tích luỹ rất ít ở các công ty THƯƠNG MẠI); đầu tư tài chánh (ngắn hạn: giấy tờ có giá,... dài hạn: góp vốn liên doanh,...) mua NVL, hàng tồn kho, hoặc là tiền mặt.
    Đứng ở khía cạnh Tài chánh- nhằm mục đích kiểm soát luồn tiền ra vô để có thể khai thác tối ưu lợí ích tài chánh mang lại, chủ động, cân đối nguồn tiền lên kế hoạch kinh doanh,... thì mới xuất hiện các từ Vốn cố định-TSCĐ, vốn lưu động-TSLĐ được xác định theo tiêu chí thời gian tồn tại và tính ổn định của nguồn vốn và tài sản hình thành. Thông thường nói một cách ngắn gọn: Vốn cố định (vốn Chủ sở hữu, vốn vay dài hạn) dùng để đầu tư TSCĐ, khi thiếu hụt sẻ dùng nguồn vốn ngắn hạn → có thể thiếu hụt thanh khoản thanh toán ngắn hạn, nếu dư thừa vốn dài hạn (lãi suất cao) → bổ sung cho vốn kinh doanh ngắn hạn → chi phí gia tăng.
    Thanks
  • Long Phan
    6/11/2007 10:43:28 AM
    Thực chất của từ "vốn" trong bài trên là "tài sản" của doanh nghiệp. Một số giáo trình của trường đại học ở VN vẫn chưa thực sự phân biệt tài sản và nguồn hình thành nên tài sản (assets and how they are financed).

    Tài sản là cái có thực (real assets, bao gồm cả visible và invisible), doanh nghiệp sử dụng tài sản để hoạt động sxkd. Có tài sản thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được.

    Vốn, hay nguồn hình thành tài sản, cho thấy tài sản của doanh nghiệp được tài trợ như thế nào. Doanh nghiệp đi vay để mua tài sản, góp vốn của cổ đông để mua tài sản, vay ngắn hạn hay vay dài hạn,...

    Do vậy, không thể phân loại vốn theo tiêu chí như bài trên.

    Theo tôi, tiêu chí phân loại trên xuất phát từ cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước từ thập kỷ 80 -90. Theo đó, nhà nước giao "vốn" cho doanh nghiệp chứ không giao "tài sản".

    Một tài sản tại DNNN như Ô tô được quản lý cả về mặt hiện vật và nguồn hình thành. Khi đó, doanh nghiệp không có quyền chủ động đối với tài sản đó. Ví dụ như khi ô tô đó hỏng cần thay thế, DN cần xin phép, và nếu chưa được phép và cũng chưa có nguồn (e.g nguồn vốn cố định năm đã sử dụng hết) thì chiếc ô tô hỏng vẫn nằm chềnh ềnh ở đó, còn DN có tiền cũng chẳng mua ô tô mới được.
  • kimchi
    6/11/2007 10:40:42 AM
    Bạn gaubo thân mến!
    Vốn kinh doanh của doanh nghiệp gồm có vốn cố định và vốn lưu động. Các danh từ này thường dùng trong tài chính chứ không dùng trong kế toán cho nên bảng cân đối kế toán bạn không thấy nó xuất hiện. Nó là 2 mặt của một vấn đề. Cũng như trên bảng cân đối kế toán phân ra 2 phần là phần tài sản và phần nguồn vốn, mặc dù biểu hiện bằng tiền của chúng là bằng nhau.
    Hiểu được khái các khái niệm này ta sẽ đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu khác như:
    - Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp
    - Đánh giá hiệu suất sử dụng vốn lưu động, vốn cố định và vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
    * Hiệu suất sử dụng vốn lưu động:
                 + Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
                 + Kỳ luân chuyển vốn lưu động
                 + Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn
    * Hiệu suất sử dụng vốn cố định:             + Hiệu suất sử dụng vốn cố định
                 + Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
                 + Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định
                 + Hệ số hao mòn TSCĐ
                 + Hệ số huy động tài sản cố định.
                 + Các chỉ tiêu về kết cấu TSCĐ
    * Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
                 + Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh trước thuế và lãi vay (hay hệ số khả năng sinh lời của vốn kinh doanh)
                 + Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
                 + Tỷ suất lợi nhuận ròng vốn kinh doanh
                 + Tỷ suất lợi nhuận ròng vốn chủ sở hữu ...
    Lần sau có thời gian tôi sẽ post bài kỹ hơn về vấn đề này
  • Avatar
    Trần Đức Nam
    6/11/2007 7:05:19 AM

    Tôi có thắc mắc thế này: tại sao lại gọi là "Vốn cố định" và "Vốn lưu động". Bảng Cân đối tài sản của một doanh nghiệp có 2 phần chính là Tài sản và Nguồn vốn. Trong đó Nguồn vốn là nguồn lực tài chính mà chủ doanh nghiệp bỏ ra hoặc huy động (ví dụ vay) để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Các nguồn lực tài chính này sau đó được sử dụng để mua sắm các máy móc thiết bị, công cụ dụng cụ, đầu tư..., gọi chung là tài sản.

    Như vậy có thể thấy vốn và tài sản là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Không hiểu sao vẫn được sử dụng lẫn lộn như vậy. Tôi đã cố gắng tìm hiểu trong từ điển tiếng Việt, nhưng giải thích cũng không rõ nghĩa lắm. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ các cách phân loại trong bài viết này thì tôi thấy nếu có gọi "vốn lưu động" là "tài sản lưu động", "vốn cố định" là "tài sản cố định" thì cũng chẳng có gì sai cả.

    Ví dụ: khi nói "Tài sản cố định của doanh nghiệp A là 5 tỷ đồng" thì đâu có gì sai, thậm chí theo tôi còn chuẩn hơn nói "Vốn cố định của doanh nghiệp A là 5 tỷ đồng".

    Mong các chuyên gia về ngôn ngữ học cho ý kiến